Trung Quốc là xứ sở của núi non hùng vĩ. Trong những rặng nứi đó có những ngọn đã trở thành thiêng liêng, là “đạo trường” của Bồ-tát như Ngũ Đài sơn của Văn-thù, Nga Mi sơn của Phổ Hiền, Cửu Hoa sơn của Địa Tạng và Phổ Đà sơn của Quan Âm. Đó là “tứ đại danh sơn” mà về sau sẽ được nhắc tôi.
Song song, Trung Quôc còn có năm rặng núi thiêng khác được gọi là Ngũ Nhạc với trung tâm và bôn hướng đông tây nam bắc. Đó là Tung sơn ở trung tâm, thuộc tỉnh Hà Nam; Thái sơn phía đông, thuộc tỉnh Sơn Đông; Hoa sơn, phía tây thuộc tỉnh Sơn Tây; Hành sơn phía nam, thuộc tĩnh Hồ Nam và Hằng sơn phía bắc thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngũ Nhạc là nơi “trời đất giao nhau”, nơi các đời vua chúa từ 2.000 năm nay đến cầu cho đất nước thái bình thịnh trị.
Trung Nhạc Tung sơn, cách Lạc Dương khoảng 50km phía đông nam, đỉnh cao nhất là 1.440m. Tại Tung sơn, Thiếu Lâm tự được xây dựng năm 495, nó là quê hương của Thiền tông Trung Quốc, vô lâm bắc đẩu. Đây là ngôi chùa mà khoảng nàm 520 Bồ-đề Đạt-ma đã đến đây, quay mặt vào tường chín năm và cuối cùng truyền tâm ấn cho Huệ Khả.
Đông Nhạc Thái sơn được xem là rặng thiêng liêng nhất, đó là rặng núi của Đạo giáo. Nằm về hướng đông, phía mặt
trời mọc, Đông Nhạc là nơi vua chúa thân hành đến tế trời dất từ hơn 2000 năm nay. Chỗ cao nhất của Thái sơn đo được 1.545m. Thái sơn là nơi thờ thần Thái Sơn phủ quân của Đạo giáo, vị thần thống lĩnh dời sống trần gian, chỉ nghe lệnh của Ngọc Hoàng thượng đế. Đền cao nhất của Thái sơn là dền Ngọc Hoàng, cao 1.524m.
Tây Nhạc Hoa sơn là rặng núi cùng với nãm đỉnh đông tây nam bắc và trung tâm, mà đỉnh cao nhất là Liên hoa đỉnh, cao 2.100m. Giữa năm đỉnh đó là con đường đá đi từ vách này quạ vách khác mà cứ mỗi bưởc chân là dẫn đến một phong cảnh khác lạ. Ngày nay trên Hoa sơn người ta còn thấy một phiến đá phẳng. Huyền sử chép rằng đó là chỗ Triệu Khuôn Dẫn, thái tổ nhà Tống, đánh cờ với Trần Đoàn, đạo sĩ trường sinh bất tử. Triệu Khuôn Dẫn thua, phải nhường Hoa sơn cho đạo sĩ.
Nam Nhạc Hành sơn có đến 72 đỉnh mà đỉnh'cao nhất đo được 1.290m. Tương truyền rằng trên đỉnh Tử Cái, một đỉnh cao của Hành sơn, vua thần kỳ Hoàng Đế đã hội nghị với các chư hầu miền nam. Đến thế kỷ thứ 20 (trước công nguyên), có nhà vua tên Vũ, cháu năm đời của Hoàng Đế, hậu duệ của Nghiêu Thuấn, là người khai sáng đời nhà Hạ (thế kỷ 21-16). Ông lên dây quan sát địa thế dể vạch kê' hoạch trị thủy, ngày nay còn để lại danh thơm. Tại Nam Nhạc Hành sơn hiện còn có rất nhiều đền dài của Đạo giáo và Phật giáo.
Bấc Nhạc Hằng sơn nằm cách Đại Đồng khoảng 75km là một rặng núi mênh mông với đỉnh phía bắc cao 2.017m. Trên đỉnh phía bắc này ngày nay còn lại đền thờ lớn nhất của Hằng sơn, xung quanh là rừng thông bao phủ. Trên sườn núi Hằng sơn có nhiều đền đài mà nổi tiếng nhất là Huyền Không tự, tức là “chùa treo”. Chùa này được tôn là một trong mười thắng cảnh của tỉnh Sơn Tây. Huyền Không tự quả nhiên như treo cheo leo trên sườn núi. Từ xa người ta tưởng
là sườn Hằng sơn được vẽ tạc hình một ngôi chùa, tới gần mới hay đó là một tổng thể khoảng 40 diện thờ nhỏ bé với rất nhiều tượng Phật, Bồ-tát. Các điện này được xây dựng trong thế kỷ thứ sáu, nối với nhau bằng các hành lang gỗ, nằm cheo leo trên sườn núi, được chống bằng những cột sắt.
Tôi đến Hằng sơn vào buổi trưa, nghỉ trong một quán mang tên “Hằng sơn tửu điếm”. Nghe tên Hằng sơn, lòng tôi đã rộn rã, bỗng nhớ Kim Dung và Lệnh Hồ Xung của ông vô cùng. Cám ơn Kim Dung, ông là người làm tôi biết và yêu mến một đất nước Trung Quốc trừu tượng trong ký ức. Quá khứ trong tôi bỗng hiện về rõ mồn một. Tói nhớ những năm đầu của 1960, khi truyện của Kim Dung còn đăng báo ngày và mình nằm dài trên nền nhà đọc tờ Tiếng Vang, trong đó có Cổ Gái Đồ Long. Kim Dung đưa tôi đi khắp Trung Quốc với các địa danh tuy xa lạ nhưng rất thú vị như Động Đình hồ, Ngũ Nhạc, Thiếu Lâm tự. Quan trọng hơn, ông khắc họa cho tôi về một xã hội Trung Quốc tuy xa vời vợi có vẻ như hoang dường nhưng hết sức gần gũi mà hầu như ta có thể tìm thấy mình trong đó. Tôi vẫn nhớ Kim Dung trong mỗi bước đi tại Trung Quốc, trong mồi dòng viết về Trung Quốc. Vì thế tôi rất để ý tìm hiểu Khưu Xứ Cơ, Vương Trùng Dương, Trương Tam Phong, những nhân vật có thật, tiền bối của Trương Vô Kỵ. Tói thích nhác tới Chu Nguyên Chương không phải vì ông là thái tổ nhà Minh, cũng không phải ngày trước ông là tăng sĩ, mà vì ồng là nhân vật có thật trong Cô Gái Đồ Long, được kể lại trong truyện lúc Trương Vô Kỵ bắt đầu sống đời nhàn nhã với Triệu Minh. Với Cô Gái Đồ Long, Kim Dung đã vẽ nên một xã hội hiện thực của loài người, trong đó thiện ác lẫn lộn, ánh sáng và bóng tối chồng lên nhau nhiều lớp, cái phải cái trái tồn tại song hành cùng một lúc trong xã hội và trong tâm lý con người. Chính phái và ma giáo tưởng chừng như hai thái cực đối lập với nhau đă hòa
vào nhau, trong chính phái có những hành động hết sức đen tối và trong ma giáo có những con người đáng làm thầy của những kẻ tường mình đi trên đường vương dạo. Và nhất là Kim Dung đã cho tình yêu nảy nớ giữa những con người mà quê hương chính tà của họ cách nhau vạn dặm, cho thấy những giá trị thuộc đầu óc lý luận chưa bao giờ thay thế tiếng nói sâu thẳm của trái tim.
Sau Cô Gái Đồ Long, Kim Dung còn một kiệt tác, đó là Tiếu Ngạo Giang Hồ, bản thân ông đă gỉà dặn hơn rất nhiều sau các tác phẩm trước. Với Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung đả vẽ một toàn cảnh đương đại với một khung xã hội và chính trị rộng lớn, trong đó con người vừa đạo diễn mọi điều xẩy ra trên sân khấu, vừa chịu cảnh vui buồn của những gì do mình bày ra. Tác phẩm này đă một thời làm tôi biết nhìn cuộc đời không phải chỉ gồm hai màu đen trắng. Thế nhưng cần nói thêm tà, với số tuổi ngày nay, tôi càng nhận ra rằng đổ là một tác phẩm phản ánh sâu sắc kiếp nhân sinh, xót xa thay thân phận con người nằm trong mọi sự xô đẩy của những ngọn sóng lành dữ khác nhau, những dam mê đầy nhân tính, những âm mưu quỉ quyệt. Cũng trong bức tranh đầy những mảng tối sáng đó, con người với tình yêu của nó mới sáng lên tính cá thể của inình. Và ngay cả tình yêu tưởng chừng là một điều rấtf riêng tư cũng không bao giờ trọn vẹn, Lệnh Hồ Xung của Kim Dung tuy hạnh phúc hòa hợp với Doanh Doanh nhưng chàng vẫn tưởng nhớ đến một tình yêu vô vọng.
Với Tiểu Ngạo Giang Hồ, tôi biết đến Ngủ Nhạc và ngày nay đến đây, lòng tôi sao khỏi có niềm rộn râ kính trọng. Hằng sơn tửu điếm này nằm ngay dưới chàn Hằng sơn của phái Nga Mi phải là nơi giang hồ đã lắm người qua lại, nơi Lệnh Hồ Xung và Đào cốc lục tiên ghé ăn nhậu, ccn nàng Nghi Lâm mà tôi yêu mến chắc không khi nào dám vào. Tiểu
nhị đem bánh bao ra! Thì ra bánh bao là một thứ người Trung Quốc vẫn ăn như ta ăn cơm, và ta ăn cơm trắng thì bánh bao của họ trắng trơn không nhân. Tôi thử chiếc bánh bao và công bằng mà nói thì thấy nó nhạt nhẽo, không hiểu tại sao đại hán ngày xưa ăn “mây cân bánh bao” một lúc. Và rượu thì ngày xưa hẳn Đào cốc lục tiên uống không bao giờ đú, ngày nay người Trung Quốc uống bia. Như tại Việt Nam, ở đâu cũng có bia, tỉnh nào cũng có hiệu bia, chai nào chai nấy to gần cả lít. Bia Thanh Đảo nổi tiếng nhất, nhưng tại rặng Cửu Hoa sơn xa xôi cũng có bia Cửu Hoa.
Nhớ chàng trai Trương Vô Kỵ, tôi không thể không nhổ đến Quang Minh đỉnh. Đó là sào huyệt của Ma giáo mà chàng đã lần mò theo một vị hòa thượng để lên tới. Nhưng Quang Minh đĩnh có thật chăng?
Quang Minh đĩnh là một đỉnh của rặng Hoàng sơn. Hoàng sơn là độ nhất danh sơn của Trung Quốc. Ngũ Nhạc đã đẹp nhưng Hoàng sơn vượt xa Ngũ Nhạc.
Hoàng sơn nằm trong tỉnh An Huy, là một rặng núi có 72 đỉnh, mà đỉnh cao nhất là Liên Hoa đỉnh (1.860m) và sau đó là Quang Minh đỉnh (1.840m). Huyền sử chép rằng vua Hoàng Đế đến đây để luyện linh đan sống ngàn năm nên núi có tên Hoàng sơn. Ngày nay dưới chân Hoàng sơn là một thành phô" có sân bay, đến từ Hàng Châu, Thượng Hải rất tiện.
Nhà du khảo nổi tiếng đời Minh, Từ Hà Khách, là tác giả của Từ Hà Khách du ký, một tác phẩm có giá trị về văn hóa và khoa học. Ông dã đến dây và thốt lên:”Đến Ngũ Nhạc thì không kể mọi danh sơn khác, đến Hoàng sơn thì không kể Ngũ Nhạc”. Hoàng sơn thật là một cảnh non bồng nước nhược với bốn đặc tính: sườn núi như vách dựng đứng, rừng thông dầy hình thù kỳ dị, thế đá lạ lùng bí hiểm và cảnh mây bọc núi, núi xuyên mây. Hoàng sơn là nơi thống nhất
*ỊỊ>
•Ticr*
H 28: Sơ đồ Hoàng sơn.
1) Quang Minh dinh; 2) Liên hoa đỉnh; 3) Đào Hoa Phong.
Hình trích của “Hitartgshan ín China”, Publishing house of China
National, Academv of finen Arta, 1994.
uy danh của các núi lớn: cái tôn quí của Thái sơn, màu hoang dã của Hoa sơn, biến mây mênh mông của Hằng sơn, thác nước cuồn cuộn của Lư sơn và phong thái thần tiên của Nga Mi sơn. Hoàng sơn chính là đối tượng sơn thủy của tranh thủy mặc từ nhiều ngàn năm nay. Trên sườn Hoàng sơn vào mùa xuân người ta chỉ thấy một vùng trắng như tuyết nhưng không phải tuyết, hỏi ra thì đó là Đào Hoa Phong, đỉnh chỉ trồng hoa đào.
Tôi đến Hoàng sơn để ngắm những ngọn núi hầu như cổ tích này. Trung Quốc mênh mông và quá nhiều cảnh đẹp, nếu chỉ thăm một núi thì đó là Hoàng sơn; nếu chỉ thăm một hồ thì đó là Tây hồ ở Hàng Châu. Nằm dưới chân Hoàng sơn có một thị trấn còn giữ lại dược từ thời nhà Tống, thế kỷ thứ 9, thứ 10. Thị trấn này làm tôi nhớ đến Hội An, ngày nay nó cũng là chỗ bán quà lưu niệm nhưng nó cổ hơn Hội An khoảng 400 năm và toàn bộ nhà cửa ngày xưa còn nguyên vẹn suốt cả một con đường dài vài km.
Hoàng sơn là đệ nhất danh sơn, “đến Hoàng sơn thì không kể Ngũ Nhạc”, đó phải là lý do mà Ma giáo đã một thời chọn Quang Minh đính ỉàm ngai vàng để muôn năm trường trị, thống nhất giang hồ, chống lại các chính phái. Đến Hoàng sơn, tôi hiểu thêm rằng, những gì mình đọc Kim Dung ngày xưa là một sự phối hợp tài tình giữa lịch sử và địa lý có thật của Trung Quốc, hòa trong nền tảng thực tê' của đạo lý, tâm lý và xã hội của đất nước này, cùng với tài hư cấu tuyệt vời đế' khắc họa những nhân vật, sáng tạo những hành động vồ cảnh ngộ vừa hoang đường vừa hiện thực.
Cuộc ác chiến trên Quang Minh đỉnh không hề có thực nhưng Hoàng sơn, ngọn núi nằm tại hạ lưu sông Dương Tử, là chứng nhân của những trận chiên đẫm máu suốt trong lịch sử Trung Quốc. Trước công nguyên tại vùng này đã xảy ra
Scanned by My HO
H 29: Một dinh núi trong dây Hoàng sơn.
CUỘC Hán Sở tranh hùng, cuối cùng Hạng Vũ thua, tự tử tại Cai Hạ trên bờ Dương Tư. về sau Ngô Phù Sai cũng bị Việt vương Câu Tiễn tiêu diệt nơi đây. Đầu thế kỷ này, đây cũng là nơi Nhật và các nước phương Tây xâu xé Trung Quốc. Và, lịch sử lặp lại, cũng chính đây là nơi phát sinh các cuộc cách mạng vũ bão tại đất nước mênh mông này.
Tôi đến Hoàng sơn, hoa đào trên đỉnh Đào Hoa Phong vẫn nở trắng trinh nguyên như ngày trời đất mới mở hội. Tất cả, những gì hư cấu hay có thực, đã chìm trong lịch sử. Mầu nhiệm thay, thời gian.
TỪ TIỂU NI CÔ NGHI LÂM ĐẾN NÀNG LÝ NGƯ
Dưới chân Hằng sơn tôi không thể không nhớ đến một người con gái tên gọi là Nghi Lâm. Đó phải là một thiếu nữ xinh tươi, hoạt bát, đầy nhựa sông. Thế nhưng đồng thời, nàng là một tiểu ni cô với hạnh nguyện nghiêm túc mà cuộc đời mãi mãi gắn liền nơi cửa Phật. Những cuộc đâu tranh long trời lở đất trong Tiếu Ngạo Giang Hồ đưa đẩy nàng xuống núi hành hiệp, nhưng cứ mỗi lần phạm chút lỡ lầm, nàng lại thầm cẩu mong bồ-tát tha tội.
Với tuổi tác và võ công non kém, Nghi Lâm “hành hiệp” không hiệu quả lắm, nàng chỉ có một vai trò rất phụ thuộc. Nàng chỉ “nổi” trong sự hoạt bát đầy thông minh của mình và cũng với tấm lòng ycu cuộc sống đó, nàng cảm thấy gần gũi tự nhiên với Lệnh Hồ Xung, một chàng trai dễ yêu. Theo đà câu chuyện, Kim Dung sáng tạo ra cảnh Lệnh Hồ Xung phải miễn cưỡng làm trưởng môn phái Nga Mi của Hàng sơn, dẫn đầu cả một đám nữ đệ tử trong đó có Nghi Lâm. Hay thay cái chính tà đan chéo lẫn lộn, một kẻ bị trục xuất khỏi Hoa sơn vì “theo tà bỏ chính” mà lãnh đạo Hằng sơn, các vị ni sư Hằng sơn dám phá chấp mà gọi một chàng trai ham rượu chè về núi để điều động đệ tử. Trong khung cảnh đó, một tình cảm nẩy nở trong lòng Nghi Lâm mà nàng không biết gọi tên.
Nghi Lâm không biết gọi nó là tình yêu, thứ tình cảm mà nàng thấy thể hiện bằng sự quyến luyến Lệnh Hồ đại ca. Nàng không tìm cách kiềm chế nó như các vị sư trưởng của nàng mong đợi, vì đối với nàng, tình cảm đó chưa có gì là tội lỗi. Các vị sư tỉ của nàng già dặn hơn, biết đó là tình yêu và tìm cách ngăn cản một cách nhẹ nhàng, đầy từ bi như bồ-tát của họ. Dễ thương biết bao, môi tình nhẹ nhàng này trong tác phẩm, nó xuyên suốt đến cuối câu chuyện dể Nghi Lâm rốt cuộc trở thành một người chủ chốt, hạ thủ cả Nhạc Bất Quần. Đáng thương thay cho nàng, nàng sẽ ân hận suốt đời vì hành động mà người như Nghi Lâm sẽ cho là vô đạo đó. Và không ai rõ sau khi câu chuyện chấm dứt, các vị sư nữ trở về núi tu hành tụng niệm, làm sao Nghi Lâm quên dược lòng “quyến luyến” của mình. Liệu về sau nàng có biết đó là tình yêu hay không, đó là diều người đọc truyện tự trả lời.
Đến Hằng sơn, tiếc thay tồi không còn thấy, một tiểu ni cô nào cả. Đi nhiều nơi thâm nhiều tự viện tại Trung Quốc ngày nay, tôi cũng không thấy một vị sư nữ nào, chứ đừng nói tới ni cô vai mang kiếm đi hành hiệp. Tại nhiều chùa tôi nghe nói có sư nữ nhưng hình như chúng tôi không được thăm viếng. Hẳn hình ảnh sư nữ Phật giáo đâ biến mất khỏi xâ hội Trung Quốc ngày nay. Thế nhưng tại Bắc Kinh, tôi gặp một chuyện lạ. Tôi dưực đi xem opera, tuồng Truyện nàng Lý ngư tại Nhà hát lớn ở Bắc Kinh, cách quảng trường Thiên An môn không xa.
Tuồng kể có chàng thư sinh nọ, gia đình nề nếp. Lúc nhỏ chàng đã đính hôn với con gái của một vị quan, về sau cha mẹ chết sớm, gia đình sa sút, chàng thư sinh ngày càng nghèo, gia đình ông quan nọ tỏ vẻ xa lánh chàng. Chàng thư sinh buồn bã không thiết gì đến việc học hành, ngày đêm thở vắn than dài. Ngày nọ, tiểu thư con ông quan đến thăm thư sinh, bày tỏ vẫn yêu thương chàng, nhưng tại cha mẹ nàng sinh lòng rẻ rúng, chứ nàng vẫn quyết một lòng chung
thủy với chàng. Chàng thư sinh hết sức phấn khởi, chăm chỉ học hành. Chàng có ngờ đâu người con gái đó là một nàng Lý ngư sống trong hồ, tu luyện lâu nãm. Biết được hoàn cảnh của chàng, nàng liền biến hiện thành tiểu thư nọ đến khuyên nhủ đế’ chàng vên tâm dùi mài kinh sử.
Đến ngày hội hoa đãng, đôi trai tài gái sắc đi hội, không ngờ gặp nàng tiểu thư thật! Chàng thư sinh lấy làm lạ khi thấy hai người giống nhau như hệt mà người nào cũng tự xưng là tiểu thư cả. Ông quan nọ được vời đến để phân biột ai là con gái mình, thế nhưng không làm sao biết được; vì nàng Lý ngư có thần thông đã biết hết mọi chuyện riêng tư của nàng tiểu thư. Nàng Lý ngư đã lỡ hiện hình tiểu thư, nàng phải làm cho trót vai trò. Nhưng còn thêm một điều thú vị, đó là nàng đã lỡ vêu chàng thư sinh mất rồi. Óng quan nọ không biết xử lý ra sao nên đcm cả hai nàng đến Bao Công nhờ phân xử. Nàng Lý ngư có một ông anh thần thông xuất chúng, sống tại thủy cung. Ông anh này liền biến mình thành Bao Công để tìm cách bênh vực cho cô em gái. Thú vị thay khi thấy hai Bao Công và hai tiểu thư giống hột nhau trẽn sân khấu trong sự hoang mang hoảng hốt của ông quan nọ và chàng thư sinh tôt sô". Cuối cùng Bao Công thật mới dùng cái kê muôn đời là đem thư sinh vô tội ra đánh đòn trừng trị dể xem phản ứng của hai nàng tiểu thư, qua đó mà biết ai thật ai giả. Cũng lụy vì tình mà nàng Lý ngư lộ bản chất chỉ là con cá chép tu luyện ngàn nàm. May mắn thay cho nàng, chàng thư sinh không chc nàng mà đem lòng yêu thưưng, theo về đến thủy cung.
Tưởng như vậy là ổn, ai ngờ đây là một chuyện sai đạo lý, người không thể chung sống với loài vật! Và người thi hành đạo lý đó là tướng nhà trời Dương Tiễn. Dương Tiễn đem quân đến thủy cung bắt Lý ngư. Ngờ đâu Lý ngư cũng như chàng thư sinh yếu đuối nhất định đánh lại, thà chết chứ không chịu xa nhau. Cuối cùng Lý ngư đánh không lại Dương Tiễn, nàng cầu
cứu Phật Bà Quan Âm. Bồ-tát Quan Ám hiện ra, cho nàng lựa chọn, nếu là vì tình yêu thì được biến thành người, chung sống với thư sinh nhưng phải mất hết công phu tu luyện, mất tuổi thọ mấy ngàn nàm. Nàng Lý ngư thưa: “Nếu không có tình yêu thì sống ngàn nãm phỏng có ích gì”. Xúc dộng thay lời nói của nàng. Sau đó nàng chịu cho Dương Tiễn rút ba cái vảy thần
- chúng là hiện thân của kết quả tu luyện ngàn năm của mình
- để về sống cuộc đời của một con người bình dị.
Trong bóng tối của hội trường, tôi nhận ra lòng mình mang nhiều câm khái về opera của Bắc Kinh nổi tiếng toàn thế giới mà ta tạm gọi là “hát bộ”. Hay thay, giải pháp có tình có lý đầv từ bi, đầy tính người của Quan Ảm. Liều lĩnh thay, nàng Lý ngư, dám bỏ công phu tu luyện ngàn năm để nhận kiếp nhân sinh nhiều rủi ro, đầy trắc trd; bỏ thần thông để làm con người yc'u đuôi và bất lực trước mọi hoàn cảnh. Tất cả những hy sinh đó chỉ để làm theo tiếng gọi của trái tim. Và lạ lùng thay, giữa Bắc Kinh mà có những vở tuồng có tính phê phán xã hội và đầy tính tâm linh tôn giáo, trong đó Bao Công thật và giả đấu trí với nhau trước mắt người dân, trong đó hình ảnh cua Nam Hải Quan Âm được trình bày hết sức trân trọng; và cuối cùng giải pháp của Ngài đề ra là chung quyết, trọn vẹn cho con người.
Nghi Lâm và nàng Lý ngư đều là những hình tượng tuyệt đẹp để tả tình yêu trai gái, một khía cạnh ưu việt cùa văn hóa nghệ thuật Trung Quốc. Hai câu chuyện khác nhau xa về kết cục nhưng giống nhau ở chỗ hai nàng đêu xả thân, không tiếc mạng sống của mình. Những điều đó làm rung động đến tâm can người đọc, người xem. Những mối tình nhẹ nhàng như của Nghi Lâm, mãnh liệt như cua Lý ngư đều có một nguồn gôc chung là tính người. Vì thế chúng dược thể hiện khắp nơi, có thế nằm trong một bộ trường thiên tiểu thuyết của Kim Dung, cũng có thể ở trong một tích tuồng dầy màu sắc và tiếng thanh la não bạt của opera Bắc Kinh.
0 nhận xét: