Thay lời tựa
Tiểu luận này là tuyển tập những bài viết của tôi về Kim Dung, đăng trên các báo Kiến thức ngày nay, Pháp luật. Tôi có bổ sung thêm một vài bài, và có sửa chữa đôi chút cho phù hợp, khi in ra dưới dạng sách. Viết về Kim Dung, với tôi, là cách để nói lên những suy niệm riêng của mình. Và cũng là cách nói hộ cho rất nhiều người khác, những gì họ mà họ đã ấp ủ từ lâu trong tâm niệm. Đọc các tác giả lớn như Kim Dung, ta phải nên luôn luôn tư niệm một điều "Nhà tư tưởng luôn luôn suy tư về một điều duy nhất'.
Tác phẩm Kim Dung làm người đọc say mê không chỉ ở cốt truyện hấp dẫn, nghệ thuật kể chuyện tài hoa, hoặc ở chỗ đưa người đọc đến với môt thế giới rộng lớn bao la và thiên nhiên huyền bí, mà còn ở chỗ nó đặt ra những vấn đề trầm trọng cho tư tưởng. Các bộ sách đồ sộ của ông âm thầm kết tập vô số dư vang, dưới ánh sáng lung linh của Đông Phương Sơ Thủy, và mở ra một thông đạo thênh thang cho tư tưởng, để đón nhận nhiều dư hưởng mênh mông khác từ bốn phương vọng lại. Để lịch hành trên thông đạo đó, thì cách hay nhất là đọc trực tiếp các tác phẩm của ông, bởi vì "Shakespeare will never be made by the study of Shakespeare111 (Chân tướng của Shakespeare sẽ không bao giờ hiển lộ bởi Shakespeare học). Điều đó cũng đúng với Kim Dung, và đúng với các tác giả lớn khác, suốt dưới vòm trời Đông Tây kim cổ.
Đi vào thế giới Kim Dung bằng những suy niệm chân thành, chúng ta sẽ dễ nhận ra mối nhất dĩ quán trong hàng chục bộ sách của ông. Nhưng nhận ra ở mức độ nào, hoặc nhận ra được điều gì, thì điều đó còn tuỷ thuộc vào cơ duyên của từng người. Và đi vào thế giới Kim Dung cũng có nhiều thể cách: hoặc bỡn cợt phiêu bồng, hoặc trầm ổn túc mục, hoặc lai rai khoái hoạt, hoặc đăm chiêu tư niệm.
Và xin mượn lời thi sĩ Bùi Giáng để kết thúc cho phần tựa:
"Đọc truyện vũ hiệp là một trong những phép tu dưỡng kỹ ức và khơi dẫn nguồn vui ẩn mật trong mình. Đọc theo lối hồn nhiên, hoặc 1
1 R.w. Emerson, Self-Reliance, The Harvard Classics, 1937, tr.80
3
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
vừa đọc vừa suy gẫm. Chưởng lực, kiếm thế, nội kình phát ra có thể là tinh thể của tinh thần phát hiện.
Riêng đối với bạn thi sĩ, sách vũ hiệp có thể giúp bạn làm thơ lai láng một cách không ngờ. Điều đó không có chi lạ: ban sơ vũ học, văn học, thi nhạc cùng phát khởi tại một cỗi nguồn: uyên nguyên của tinh thần xuất phóng".1
Như thê phải chăng là đã nói rất nhiều?
Quảng Nam, cuối năm con Rồng, 2000 1
1 Kim Kiếm điêu linh, NXB Võ Tánh, 1967, (lời cuối sách)
4
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung nhìn qua lăng kính triết học truyền thống phương Đông
Tại phương Đông, triết học hoàn toàn không phải là những khái niệm xa lạ với cuộc sống, nó không tự đóng khung trong những tháp ngà để mọi người phải "kính nhi viễn chi"] mà trái lại nó hòa nhập vào tận từng hơi thở của cuộc sống thường ngày. Người phương Tây thường nói: Ăn trước rồi mới triết lý sau, người phương Đông cho rằng trong công việc ăn uống, sinh họat đời thường tự nó đã mang tính triết lý rồi. Trong lịch sử phát triển văn hóa phương Đông, đã có nhiều giai đoạn người ta khó lòng chứng kiến được sự nở rộ đến kì diệu của các trào lưu Trà đạo, Hoa đạo, Kiếm đạo, hội họa thi ca... nếu như chúng không được gợi hứng trực tiếp ít nhiều từ Lão giáo và Phật giáo Thiền tông. Thê nhưng hoa đạo, trà đạo hay hội họa... dẫu cao diệu đến đâu chăng nữa cũng chỉ là sự biểu hiện của tâm dưới ánh sáng của các tâm hồn giác ngộ; chỉ trong Kiếm đạo, sinh mệnh mới thực sự treo lơ lửng trên đường tơ kẻ tóc. vấn đề sinh tử không còn được nêu lên để trầm tư suy tưởng như một công án nữa, mà biên giới giữa tử và sinh giờ đây có khi chỉ cách nhau trong một sát na1 2. Từ đó triết học cũng hóa thân vào các kiếm pháp thượng thừa.
Kim Dung là một trong những người đầu tiên bước ra khỏi con đường sáo mòn của tiểu thuyết kiếm hiệp cổ điển vốn mang nặng phong cách của loại tiểu thuyết chương hồi về hình thức lẫn mô-típ sáng tạo, trong đó các nhân vật chính diện lẫn phản diện thường na ná theo một khuôn khổ ước lệ như nhau. Kim Dung là người tiền phong trong việc soi sáng các tư tưởng triết học truyền thống phương Đông dưới một khía cạnh hoàn toàn mới lạ: võ thuật. Ngay từ các tác phẩm đầu tiên như Thư kiếm ân cừu lục cho đến Ỷ thiên Đồ long kỷ, Hiệp khách hành, Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung đã không ngừng nổ lực triển khai tư tưởng này. Thế nhưng trong các tác phẩm đó, nhất là trong Thư kiếm ân cừu lục, ông đã quá chú trọng đến lý luận nên tư tưởng được triển khai hơi nặng nề. Ngòi bút nhà tư tưởng truyền thống đã lấn át phong cách hào hoa của nhà nghệ sĩ, người đọc có cảm
1 Kính sợ mà xa (Luận ngữ- Ung giả VI)
2 Một khái niệm thời gian cực ngắn theo triết học Phật giáo
5
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
tưởng đang nghe "giảng đạo". Chỉ đến Tiếu ngạo giang hồ, thì tư tưởng đó mới thực sự được khai mở một cách phiêu bồng bằng đường kiếm vô chiêu của gã tửu đồ Lệnh Hồ Xung.
Kim Dung đã triển khai những nếp gấp ẩn mật trong tư tưởng phương Đông qua phong cách riêng biệt của tiểu thuyết võ hiệp. Theo truyền thống phương Đông, phàm những gì có thành thì phải có hoại1 bởi vì vạn vật đều được cấu tạo từ chỗ bất toàn của nó1 2. Do đó, mọi chiêu kiếm dù cao thâm đến đâu, hễ đã thành chiêu thức thì ắt phải có chỗ sơ hở để địch nhân phản kích. "Nếu ta đánh không theo chiêu thức nào cả thì địch nhân phá vào đâuV'. Câu hỏi đơn giản của Phong Thanh Dương như một tiếng hét của Lâm Tế, như cây gậy của Đức Sơn3 4 khai ngộ ngay cho anh chàng lãng tử Lệnh Hồ Xung. Từ bước ngoặt đó, y đã đánh bại ngay Điền Bá Quang, người mà chỉ vài giờ trước đó đã đánh cho y thua liểng xiểng.
Từ chỗ được khai tâm điểm nhãn, đường kiếm vô chiêu tuyệt diệu của Độc Cô cầu Bại cứ theo gã tửu đồ Lệnh Hồ Xung phiêu bồng khắp giang hồ, mà không hề bại trận. Ngay dưới chân núi Võ Đương, khi vô tình so gươm với tay đệ nhất kiếm thuật đương thời là Xung Hư đạo trưởng -chưởng môn phái Võ Đương-, lúc bị khốn trong những vòng kiếm quang liên miên bất tận, Lệnh Hồ Xung vẫn nhớ đến nguyên lý "có thành phải có hoại", nên đã đánh ngay vào làn kiếm quang dày đặc và đã thủ thắng bằng một chiêu tối hậu. Một lần nữa tư tưởng Vô thắng Hữu lại được khẳng định qua đường kiếm thượng thừa. Ở đây ta thấy thấp thóang tư tưởng 11 Vô danh thiên địa chi thủy,A của Đạo đức kinh.
Kiếm pháp vô chiêu của Độc Cô cầu Bại vốn không có khuôn khổ nhất định, nó cứ linh động tùy cảm mà ứng nên nó có thể thâu hóa tất cả kiếm pháp trong thiên hạ vào một mối để biến thành kiếm pháp của chính nó, thế thì thử hỏi có kiếm pháp nào trong đời địch lại nỗi? Ngày xưa khi Độc Cô cầu Bại hành hiệp, ông chỉ ước được bại
1 Nam hoa kinh, Tề Vật luận
2 Thơ Lý Hạ "Nữ Oa luyện thạch bổ thiên xứ, Thạch phá thiên kinh đậu thu vũ" (Nơi bà Nữ Oa luyện đá vá trời, đá vỡ trời rung, mưa thu ngưng đọng)
3 Hai thiền sư đời Đường chuyên khai ngộ đệ tử bằng cách hét và đánh gậy thay cho những bài thuyết pháp
4 Vô là tên gọi khởi thủy của trời đất (Đạo đức kinh, chương I) (Cách dịch của tôi có khác với một vài sách dịch khác, thuờng dịch câu này là: Vô danh là gốc của trời đất)
6
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
trận một lần mà không được! Kiếm pháp đó sẽ cực kì phức tạp, khó hiểu đối với những kẻ uyên bác đầy ắp kiến thức, nhưng lại dễ dàng tiếp cận với những trái tim thuần phác hồn nhiên, không câu nệ cô chấp, những đầu óc không mang sẵn những định kiến cứng nhắc, những tâm hồn đã đạt mức "hư kì tâm” (giữ lòng trống rỗng) của Lão Tử. Kiếm pháp vô chiêu cũng là một bức tranh minh họa sinh động về tư tưởng "Nhất dĩ quán chi"] của Khổng Tử.
Một số người không quen nếp suy tư phương Đông sẽ cho rằng nếu như thế thì hóa ra kẻ không biết gì về võ công, đánh không theo một chiêu thức qui củ nào lại hơn cả nhũng tay cao thủ! Đây là một kiểu ngộ nhận khá phổ biến. Vô ở đây không phải là không biết gì theo suy tư thông thường mà là cái Vô đã vượt trên cái Hữu. Vô được ví như cái hang rỗng chứa được tất cả nhưng vẫn trống không. Trong truyền thống Phật giáo tiểu thừa, người đạt quả vị tối cao là A la hán còn được gọi là bậc Vô học. Từ "Vô" trong vô chiêu nên được hiểu theo nghĩa đó hoặc hiểu theo nghĩa tính Không (Sunỵata) trong hệ thống tư tường Bát Nhã Phật giáo.
Triết học Đông phương, đặc biệt là Phật giáo, vẫn thường tỏ ra dè dặt với sự lãnh hội của lý trí. Người ta không tin rằng lý trí có thể thấu hiểu được mọi vấn đề bằng khả năng, phân tich tổng hợp của nó. Chưa bao giờ, trong tác phẩm Kim Dung, kẻ uyên bác khổ luyện lại là người đạt đến trình độ tối cao trong võ học. Hình ảnh những đại cao thủ như Tô Tinh Hà, Cưu Ma Trí, Tiêu Viễn Sơn, Mộ Dung Bác... là những biểu tượng thất bại của tham vọng bách khoa, của lý trí trước thềm võ học. Bởi vì sự tích lũy không thâu hóa sáng tạo chỉ đưa đến tổng số thay vì tổng hòa. Họ chỉ đăng đường chứ không thể nào nhập thất1 2. Chỗ tận diệu của võ thuật vẫn như một huyền án lơ lững thách đố trí thông minh của con người. Càng thông minh, càng tích chứa kiến thức mà không có được một đầu mối nhất dĩ qúan thấu suốt tất cả để dung hòa thành một mối thì dễ dàng rơi vào trạng thái tẩu hỏa nhập ma tinh thần3. Trái lại những tâm hồn thuần phác và tĩnh lặng như vị sư vô danh quét rác trong Tàng kinh các chùa Thiếu Lâm mới
1 Dùng lẽ một để thấu suốt tất cả
2 Khổng tử chia môn đồ của mình thành hai hạng: hạng đăng đường chỉ hiểu được lớp bên ngoài của đạo, còn hạng nhập thất mới hiếu thấu được phần tinh hoa cốt tủy bên trong
3 Thuật ngữ dùng để chỉ những người luyện võ công sai lầm đưa đến trạng thái tê liệt toàn thân. Thật ra khái niệm này trong võ thuật Trung Quốc cũng lấy từ Hatha - Yoga Ắn Độ
7
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
đạt đến chỗ tận diệu đó. Đó là những triết gia phương Đông chân chính và vô danh đang hiển thị chữ đạo trong võ thuật giữa các công việc bình nhật thường ngày. Trong Hiệp khách hành, tất cả đại cao thủ đệ nhất đương thời đều điên đầu không thể lĩnh hội nổi võ công đề
trên bức vách tại Long Mộc đảo, kể cả Long Mộc đảo chủ, hai nhân
vật mà võ công đã đi vào huyền thọai, ấy thế mà gã ăn xin đôn hậu Thạch Phá Thiên vốn dốt đặc cán mai lại thấu trịệt hoàn toàn. Ớ đây, dường như Kim Dung muốn nhắc ta nhớ lại hình ảnh thiền sư Huệ Năng, Tổ thứ sáu của lịch sử Thiền tông Trung Quốc, người đốn củi không học hành lại được sư phụ truyền y bát để kế tiếp tông phái thay vì truyền cho Thần Tú, là một vị cao tăng uyên bác1. Cái diệu lý của võ thuật, của đạo đã vuợt quá ngôn ngữ văn tự mà đi thẳng vào tâm hồn những ngưòi đồng điệu theo lẽ "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu". (Kinh Dịch, quẻ Kiền)
Theo kinh Dịch, tất cả thiên sai vạn biệt trong vũ trụ này đều phát sinh từ cái một đơn nhất: đó là Thái cực1 2. Cho nên đỉnh cao của võ thuật cũng tiến dần đến chỗ đơn nhất. Trên con đường trở về nguồn cội, tức là quay về cái lẽ đơn nhất đó, trong truyền thống
phương Đông, tự thân võ học mất đi những cái rườm rà, Những chi tiết tan biến đi và chỉ còn lại nguyên lý "Vạn vật qui ư nhất' (Tất cả vạn sự đều quay về cái một) Rồi chính cái một đó tự nó cũng tiêu dung lặng lẽ, hòa nhập với Tâm. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, khi Trương Tam Phong dạy Thái cực kiếm pháp cho Trương Vô Kị, mỗi lần tập
luyện là Vô Kị quên đi một nữa, đến lúc quên cả mới thực sự tựu thành. Kiếm pháp lúc đó đã hợp nhất với thân tâm, kiếm chiêu thu hay phát đều theo tâm niệm như nước chảy mây bay, không bị ngăn ngại. Từ cái Một đó mà biến hoá ra thiên sai vạn biệt. Cái Một là cái nền cho mọi thay đổi, nó trở thành cái trục giúp cho mọi biến dịch xoay quay đó theo đủ thể cách mà vẫn không bị rơi vào sự hỗn độn (Chaos). Lão Tử bảo:
Thiên đắc nhất dĩ thanh Địa đắc nhất dĩ ninh
1 Theo Pháp bảo đàn kinh
2 Kinh Dịch: Dịch hữu Thái cực, Thái cực sinh Lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái (Dịch có Thái cực, Thái cực sinh ra hai nghi (hai nguyên lý Âm dương), hai nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh tám quẻ (Hệ từ thượng)
8
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Thần đắc nhất dĩ linh
Thiên vô dĩ thanh tương khủng liệt Địa vô dĩ ninh tương khủng phế Thần vô dĩ linh tương khủng hiệt
(Trời dùng Thanh (trong) để được lẽ Một, Đất dùng Ninh (Yên ổn) để được lẽ Một, Thần dùng Linh (linh thiêng) để được lẽ Một.... Trời không trong sẽ bị vỡ. Đất không yên sẽ bị lỡThần không linh sẽ bị tán -Đạo đức kinh, chương XXXIX)
Triết học cổ đại phương Đông vốn từ lâu đã bị vây khổn trong màng lưới lý luận của triết học phương Tây, nên những thiên tài như Kim Dung phải khai phá một thông lộ khác để đưa người đọc tiếp cận với nguồn suối uyên nguyên đó. Đọc tiểu thuyết Kim Dung qua lăng kính triết học phương Đông, ta sẽ còn khám phá ra nhiều điều thú vị khác. Không chỉ có võ thuật, rải rác trong tác phẩm ông, ta còn gặp nhiều trang tuyệt bút bàn về trà, về hoa, về hội họa, về thơ ca, về cờ.... tái hiện các tư tưởng trong triết học phương Đông một cách cực kì sinh động. Không lý luận nhiều, chỉ cảm nhận mà thôi. Những câu nói của các bậc hiền triết xưa vốn đã bị ngộ giải qua các cuốn sách khảo cứu, giờ đây nhiều khi tái hiện lại chân dung nguyên thủy dưới một làn ánh sáng lung linh khác.
Nếu như Lão Tử học kiếm, ngài sẽ viết lại Đạo đức kinh, thay vì nói:
Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn Tổn nhi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi1
mà sẽ nói rằng:
Vi học nhật ích, vi kiếm nhật tổn Tổn nhi hựu tổn, dĩ chí ư vô chiêu
1 Theo học thì ngày càng được thêm, theo đạo thì ngày càng bót, bớt rồi lại bớt, cho đến mức vô vi (Đạo đức kinh, chương XLXIII)
9
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Tình yêu: mệnh đề phụ trong tác phẩm Kim Dung
Mỗi khi nói đến truyện võ hiệp, người ta thường nghĩ cảnh binh đao sát phạt, mọi việc đều có thể được giải quyết bằng võ công. Thế nhưng trong tác phẩm Kim Dung thì tình yêu lắm khi lại đóng vai trò chủ đạo. Nó điều hoà, dung hợp và đôi lúc cứu vãn được nhiều tình thê bế tắc. Nói theo ngôn ngữ Heidegger, một triết gia hiện sinh Đức, ta có thể nói tình yêu trong tác phẩm Kim Dung là một loại "mệnh đề phụ". Nhưng loại mệnh đề phụ đó thường làm thay đổi cả toàn văn, hoặc giúp người đọc nhìn lại các mệnh đề chính trong một làn ánh sáng khác.
Trong các tác giả phưong Đông, hiếm thấy có ai miêu tả tình yêu nhiều sắc thái đến kì lạ như Kim Dung. Có tình yêu lãng đãng thần tiên của Dương Qua với Tiểu Long Nữ, có tình yêu quay quắt đến đớn đau của Lệnh Hồ Xung với Nhạc Linh San, có tình yêu si dại cuồng điên của Du Thản Chi với A Tử, có tình yêu tuyệt vọng của Mục Niệm Từ với Dương Khang, có tình yêu cục mịch chân chất của Quách Tĩnh với Hoàng Dung, có tình yêu say đắm thiết tha, sẵn sàng khước từ tất cả danh lợi của trần gian để đổi lấy một nụ cười của Đoàn Dự với Vương Ngọc Yến, có tình yêu lãng mạn kiểu "hồn bướm mơ tiên " của tiểu ni Nghi Lâm với anh chàng lãng tử Lệnh Hồ Xung, có tình yêu ngang trái đau thương của Trương Thuý Sơn với Hân Tố Tố, có tình yêu tha thiết ngậm ngùi và thuỷ chung của Tiêu Phong với A Châu, có tình yêu oan nghiệt cuả phương trựơng Huyền Từ với nữ ma đầu Diệp Nhị Nương, có tình yêu thơ dại hồn nhiên của Hân Ly với Trương Vô Kị, có tình yêu mang đầy cừu hận của Mai Phương Cô với Thạch Thanh v.v...
Tinh yêu đôi lứa vẫn luôn là vấn đề muôn thuở để con người ca ngợi, phẩm bình. Nó đã làm khô héo biết bao trái tim và đã làm hồi sinh biết bao tâm hồn. Nói theo Phật giáo, nếu như nước mắt chúng sinh nhiều hơn cả đại dương, thì ắt hẳn trong cái đại dương mênh mông ấy có biết bao nhiêu là nước mắt đã đổ xuống vì tình yêu! Hàng triệu triệu bài thơ tình đã được viết khắp năm châu bốn bể suốt vòm trời kim cổ, cũng chỉ để nói lên sự đa dạng đến kì lạ của tình yêu. Nó
10
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
di dời bình diện khắp nơi khắp chốn, hiện diện trên khắp mặt biển dâu và không ai có thể xác định đâu là tố chất tạo nên tình yêu.
Ai dám nói rằng tội lỗi lại không là yếu tố hấp dẫn để đưa đến tình yêu? Có ai ung thối và băng hoại cho bằng Dương Khang, kẻ không thiết tha gì ngoài quyền lực và giàu sang phú quí, thậm chí chối bỏ cả cha ruột của mình, để chạy theo cái bã hư vinh? Ây thế mà người con gái đoan trang, hiền thục như Mục Niệm Từ lại suốt đời lại thương yêu, chung thuỷ trong tuyệt vọng với con người đó. Cho dẫu khi Dương Khang nằm phơi xác bên ngoài ngôi cổ miếu hoang tàn, được xem như là một báo ứng cho những tội lỗi của y, thì Mục Niệm Từ vẫn mang hình ảnh đau thương đó về một ngôi chùa xa xăm hoang tịch. Cửa Phật vô biên có thể sẽ giúp cho linh hồn Dương Khang siêu thoát, nhưng liệu có đem lại bình yên cho hồn thục nữ đang nát tan bởi mối tình đầu?
Một Kỉ Hiểu Phù dịu hiền sẵn sàng không tuân sư mệnh, và chấp nhận cái chết để khỏi phải sát hại Quang Minh tả sứ Dương Tiêu, kẻ mà theo sư phụ nàng là đã làm tan nát đời nàng. Cảnh tượng chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái vận kình lực vào lòng bàn tay và đặt lên đầu người môn đồ đang quì gối, để buộc nàng phải chấp thuận yêu cầu của mình - qua ánh mắt trẻ thơ của Trương Vô Kị - thật là lâm li. Và cái lắc đầu của Kỉ Hiểu Phù có thể được xem như là một bước ngoặc làm dao động cả trang sử đạo lý truyền thống của võ lâm: tiếng nói thiết tha đằm thắm của tình yêu chân chính đã thắng tiếng nói đạo lý cứng nhắc của sư môn. Cái tên Bất Hối (không hối hận) mà nàng đặt cho con gái đã đội mũ triều thiên cho hai chữ Tình yêu1. Và những cành hoa dại trên nấm mộ của nàng nơi rừng vắng, sẽ mãi lộng lẫy như một vòng hoa diễm lệ, điểm trang thêm cho thiên tình sử đầy nước mắt của võ lâm Trung nguyên.
Một Đoàn Dự khước từ vương vị, chối bỏ quyền lực vinh hoa, suốt đời cứ rong ruỗi khắp giang hồ để mê mãi chạy theo tà áo phất phơ của Vương Ngọc Yến. Yêu say đắm, yêu hơn cả yêu bản thân mình mà không cần chiếm hữu, không cần được đáp lại, chỉ cần thỉnh thoảng được thấy nàng cười hoặc liếc nhìn là đủ hạnh phúc rồi! Ta
1 Một điểm trùng họp lý thú là tác phẩm Love Story của Erich Segal lại kết thúc bằng câu tương tự: Love means not ever having to say you're sorry Yêu có nghĩa là không bao giờ phải nói hối hận.
11
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
thấy có một chút gì tương đồng trong tình yêu của giữa Đoàn Dự với Người làm vườn của Tagore. Có thể nói đến cả tình yêu của Du Thản Chi với A Tử nữa, nhưng trong tình yêu cuồng điên si dại của Du Thản Chi có chút gì bất nhẫn, đó là sự tận tuy của một con vật trung thành! Còn Vương Ngọc Yến dường như sinh ra chỉ để yêu và phụng sự cho tình yêu. Người con gái diễm kiều thông tuệ ấy thấu hiểu tất cả võ công trên đời, nhưng chỉ tha thiết với tình yêu. Và cuối cùng nàng đáp lại tình yêu của Đoàn Dự như một cái gì tất yếu: tìm lại tinh thể tinh yếu (essence) của chính mình. Hai người sinh ra chỉ để yêu nhau, và cuối cùng họ đã tìm thấy "một nửa còn lại" của nhau, đúng lúc cận kề với cái chết giữa đáy giếng khơi!
Một Hoàng Dung thông minh, giảo quyệt là thế lại đi yêu anh chàng cục mịch Quách Tĩnh được mệnh danh là "con trâu nước". Biết đâu trong cái chất phác khù khờ lại hàm chứa nhiều điều lôi cuốn một tâm hồn thông minh nhạy cảm? Còn có gì đáng buồn cười hơn khi ta hình dung lại cảnh tượng gã tửu đồ lãng tử Lệnh Hồ Xung cung kính quì lạy cô bé Nhậm Doanh Doanh thấp thoáng sau tấm sáo trúc, luôn miệng gọi là "bà bà" và kể lể tất cả nỗi niềm tâm sự, trong lúc tuyệt vọng thương đau trong mối tình đầu với cô tiểu sư muội Nhạc Linh San? Vậy mà giây phút đó lại gây một tiếng sét ái tình, một "coup de foudre" cho vị Nhậm đại tiểu thư vốn cực kì cao ngạo. Và cô bất chấp thân phận "Thánh cô", bất chấp tai tiếng thị phi trên giang hồ, chiến thắng cả lòng kiêu ngạo, đã liều lĩnh cõng tên lãng tử Lệnh Hồ Xung bệnh hoạn kia lên Thiếu Lâm tự cầu xin Phương Chứng đại sư dùng Dịch cân kinh chữa bệnh cho y, và sẵn lòng chấp nhận cái giá phải đổi là chung thân ngục tù trong thạch thất! Tình yêu đầu đời quả có sức lôi cuốn đến là kì lạ và thậm chí nhiệm mầu. Đúng như Pascal bảo "Le coeur a des raisons que la raison ne connait point". Con tim có những lý lẽ mà lý trí không làm sao hiểu nỗi. Không ai có thể lý giải được. Mà nếu lý giải được thì có lẽ đó không còn là tình yêu nữa, ta phải gọi bằng một cái tên khác!
Khi Hân Ly gặp gỡ lần đầu và yêu Trương Vô Kị rồi, thì suốt đời cô chỉ biết có cái hình ảnh đó mà thôi. "Cái giây phút ban đầu " thiêng liêng và kì lạ đó đã để lại trong tâm hồn cô một ấn tượng sâu sắc đến diệu kì. Sau một thời gian dài ngoài Linh Xà đảo, khi quay về Trung thổ gặp lại chính Trương Vô Kị, dưới tên giả là Tăng A Ngưu, trong đống tuyết thì cô vẫn chỉ nhớ đến hình ảnh Trương Vô Kị ngày
12
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
xưa! Có một chút thơ dại hồn nhiên trong mối tình đầu của cô gái
chuyên luyện độc công "Thiên thù tuyệt hộ thủ " đó. Tình yêu đầu đời đã thắp sáng trong tâm hồn cô ngọn lửa tinh khiết thiêng liêng mà thời gian trôi qua, bão giông đời vẫn không làm cho tắt được.
Trên đời này làm gì có ai quái ác và tàn nhẫn cho bằng A Tử đối với Du Thản Chi? Nhưng cô bé đó lại yêu thiết tha người anh rể Tiêu Phong, và rất sẵn lòng chấp nhận hi sinh vì cái tình yêu trái ngang vô vọng ấy. Trong trái tim lạnh lùng, tàn ác của cô bé vô cùng tinh quái kia, tinh quái đến mức cực kì độc ác gần như mất cả tính người, vẫn còn chỗ cho một tình yêu trong trắng chân thành! Một cô bé mới mười mấy tuổi đầu lại có thể sống đến tận cùng hai thái cực: tàn nhẫn và đắm say. Trong văn học cổ kim có lẽ khó có cảnh tựơng nào thảm khốc và làm tan nát lòng người bằng cảnh A Tử móc mắt ném trả lại cho Du Thản Chi và ôm xác Tiêu Phong chạy rơi vào hố thẳm. Ông Bùi Giáng nhận xét cực hay: đó là triệt để mù loà chạy vào sa mạc của tình yêu.
Trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung còn đi xa hơn các tác giả võ hiệp khác khi tạo nên mối tình câm lặng của cô tiểu ni xinh đẹp Nghi Lâm với gã lãng tử Lệnh Hồ Xung. Thân phụ Nghi Lâm là gã đồ tể, chỉ vì yêu một ni cô mà phải xuất gia, lấy pháp danh Bất Giới hoà thượng (hoà thượng mà không theo một giới luật nào!). Bất Giới cục mịch là thế nhưng vẫn có cái can đảm nói lên và thực hiện được tiếng nói thực của lòng mình. Có một chút thô tục lẫn hài hước, song vẫn đáng mến trong cái gọi là tình yêu của ông ta. Còn tình yêu của Nghi Lâm đối với Lệnh Hồ Xung có thể được goi là tình yêu chăng? Nó mơ hồ man mác kiểu "Hồn bướm mơ tiên" của Khái Hưng. Không quay quắt đớn đau, không ầm ỉ, không lộ liễu. Trái tim thiếu nữ ngây thơ
của cô tiểu ni kiều diễm kia biến thành bãi chiến trường cho sự tranh chấp giữa hai tiếng gọi đời và đạo. Cô thương nhớ gã đến héo hắt, đến tiều tuỵ cả dung nhan, nhưng đáng yêu biết bao khi ngày ngày cô vẫn thành tâm cầu nguyện Bồ tát phù hộ cho cho gã Lệnh Hồ đại ca, mà cô ngày đêm tưởng nhớ đó, được suốt đời hạnh phúc với Doanh
Doanh! Một tình yêu thuần nhiên thanh khiết như dòng suối trong suốt, không bợn một chút dục vọng nào. Có thể mai sau hình ảnh của gã "Lệnh Hồ đại ca" sẽ thỉnh thoảng vương vấn trong từng trang kinh của vị tân chưởng môn phái Hằng Sơn đó, nhưng chắc chắn nó sẽ
không làm khuấy động nhiều cõi thanh tu!
13
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
Hầu hết những mối tình của các nhân vật chính của Kim Dung đều kết thúc trong đau thương hoặc dang dở, bởi định kiến, bởi ngộ nhận, bởi cái công thức chính tà cứng nhắc của con người. Liệu cái chết của Trương Thuý Sơn và Hân Tố Tố, một cặp Romeo và Juliette phương Đông, có nối kết được những gì còn để dở dang trong cuộc sống? Cái chết đau thương của A Châu trở nên vô cùng bi tráng khi nó soi sáng được biết bao nhiêu điều ngộ nhận. Có phải Kim Dung muốn đi theo con đường sáo mòn của loại khuôn khổ: Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở (thơ Hồ Dzếnh)? Không, Kim Dung còn đi xa hơn khi cho thấy những mối tình, nếu không kết thúc trong bi thương, đoạn trường thì đều tựu thành trong cái bất toàn của nó. Luôn luôn có một điều mất mát trong những mối tình trọn vẹn. Kim Dung vẫn tỏ ra trung thành với cái qui luật cực kì sâu sắc của phương Đông: Tạo hoá đố
toàn. Tạo hoá luôn luôn ghen tị vơi cái gì toàn mỹ. Mối tình thần tiên của Dương Qua với Tiểu Long Nữ chỉ tựu thành khi Tiểu Long Nữ không còn là thiếu nữ, mà đau đớn thay, lại do bởi một tên đồi bại phái Toàn Chân! Trương Vô Kị phải mất ngôi Giáo chủ Minh giáo mới có thể ngày ngày ngồi vẽ lông mày cho Triệu Minh! Đoàn Dự lấy Vương Ngọc Yến và Hư Trúc lấy công chúa Mộng Cô cũng chỉ để thành toàn cái tình yêu cay đắng và đau thương, mà người anh kết nghĩa của họ là Tiêu Phong còn để dở dang trong bi hận. Lệnh Hồ Xung chỉ có thể rong chơi giang hồ cùng Nhậm Doanh Doanh để cùng nhau tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ khi cô tiểu sư muội của mối tình đầu đã nằm yên dưới mộ!
Tiếng nói mạnh mẽ và có năng tính cao nhất trong tác phẩm Kim Dung vẫn là tiếng nói của tình yêu. Nó biến hoá thiên hình vạn trạng, băng qua máu lửa, đắm chìm trong nước mắt, lôi cuốn con người vào tận cùng của đam mê say đắm, của hi sinh, của khổ đau, của hạnh phúc, và thậm chí của tội lỗi nữa. Trong các nhân vật chính của Kim Dung có lẽ Mộ Dung Phục là một ngoại lệ: y không hề biết đến tình yêu. Y có khát khao điều gì ngoài việc khôi phục lại một nước Đại Yên hão huyền? Và vì cái giấc mộng đế vương rồ dại đó, y đã khước từ tình yêu của Vương Ngọc Yến. Có ai ngờ nỗi con người đã từng được mệnh danh là con rồng trong võ lâm đó lại có thể nhẫn tâm nhanh chóng trở mặt giết cả người thân thuộc để lấy lòng Đoàn Diên Khánh, nhằm thực hiện cho được ý đồ. Và kết cục tất yếu là y phải trở
14
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
thành người điên sống trong cơn mộng đế vương hư ảo với y phục của phường tuồng và quần thần là đám trẻ con chạy theo xin kẹo bánh!
Phải chăng Kim Dung muốn cho ta thấy dẫu tình yêu có đem lại vô vàn khổ luỵ đi nữa thì nó vẫn là tiếng nói nhân bản nhất của con người, và kẻ nào không biết đến tình yêu, kẻ nào quay lưng lại với tiếng nói đằm thắm của con tim đều tự mình đánh mất đi những gì đẹp đẽ nhất trong đời và luôn luôn đi đến một kết cục cuồng điên?
15
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Nghi vấn đạo lý qua kiến giải Kim Dung
Vào sớm mai đẹp trời, một chàng trai khôi ngô tuấn tú từ biệt sư phụ hạ sơn. Con đường hành đạo của chàng đang mở ra trước mắt với lời dặn dò của sư phụ - thường là bậc cao nhân tuyệt thế qui ẩn chốn lâm tuyền hay bậc kì nhân dị sĩ trong u sơn cùng cốc. Thế rồi từ đó, chàng "thân hoài tuyệt kĩ, nghĩa khí can vân" (Mình ôm võ công tuyệt thế, và tâm hồn nghĩa khí ngất trời), cứ ung dung đem võ công và đạo lý được thầy truyền thụ ra hành hiệp. Từ phá hắc điếm đến đả lôi đài hay giết kẻ thù...., tất cả đều được tiến hành với sự chiến thắng đã được định trước. Chàng luôn luôn là nhân vật bách chiến bách thắng và được xem như hiện thân cho công đạo của võ lâm.
Đó hầu như là cái mẫu chung cho loại tiểu thuyết võ hiệp cổ điển, trong đó mọi việc bắt đầu khi nhân vật chính đã học thành tài và hạ sơn. Trên con dường hành hiệp, nếu anh ta có tầm thù đi nữa thì kẻ thù đó cũng thường là một kẻ thù chung của nhiều người. Chuyện tầm thù rửa hận đã dời bình diện, nó không còn là chuyện cá nhân của riêng anh ta nữa mà đã mang một ý nghĩa xã hội. Trả mối tư thù và duy trì Công đạo đã trở thành một. Anh ta chỉ thay mặt cho Thần Công lý để thưởng thiện phạt ác, đem lại sự công chính cho võ lâm. Do đó, nhân vật chính diện bao giờ cũng là nơi tụ hội của những điều tốt đẹp, lý tưởng, đến mức ước lệ. Không ai nghi ngờ gì về những việc anh ta làm và cái đạo lý mà anh ta đại diện. Tình yêu của anh ta cũng thường rất đơn giản và, nói như Xuân Diệu, không hề mang một "vết xướt của tâm hồn". Vì người yêu của anh ta thường, nếu không là thục nữ khuê môn thì cũng là cao đồ của danh môn chính phái, cùng chung lý tưởng và giúp anh ta hành hiệp giang hồ. Người đọc cứ yên tâm là anh ta sẽ sống đến cuối câu chuyện với sự chiến thắng tất yếu trước mọi kẽ thù. Trong khi đó, các nhân vật phản diện luôn luôn là nơi tập trung của những cái xấu xa, tồi tệ, thậm chí đến mức gần như cường điệu. Các nhân vật chính và tà đối lập nhau rất rõ ràng về nhân cách. Nhìn chung, hiện thực được mô tả trong tiểu thuyết võ hiệp cổ điển là một thứ hiện thực được qui định. Loại tiểu thuyết đó luôn luôn chỉ tả cái phải là, cái nên là (what should be), mà không bao giờ tả được cái đang là, cái thực sự là (what is). Dường như trước khi cầm bút thì các tác gỉa tiểu thuyết cổ điển đã có sẵn một cái công thức trong trí để mô
16
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
phỏng theo, theo dạng các bài tập mẫu. Mọi diễn biến về nội dung cũng như tâm lý nhân vật, với đôi chút thay đổi về bối cảnh, đều phát triển theo lối đon tuyến và đơn điệu. Đó là một nền văn học rập khuôn của các nhà tâm lý học thô thiển, và của các nhà đạo đức học ngây thơ.
Đến Kim Dung thì mọi chuyện thay đổi hẳn. Cái biên giới phân biệt chính tà, vốn được xem là rõ ràng và không thể chối cãi trong tiểu thuyết võ hiệp cổ điển, giờ đây đã bị xóa nhòa và thay vào đó là nỗi trăn trở băn khoăn. Ông sẵn sàng gán cho các nhân vật Tà giáo những nét quyến rũ tuyệt vời, và không ngần ngại để lộ những bản chất xấu xa tàn độc của một số nhân vật Chính giáo. Người đọc làm sao có thể quên được nhan sắc lộng lẫy của Hân Tố Tố, kiến văn uyên bác của Kim mao sư vương Tạ Tốn, tài hoa tuyệt vời của Đông tà Hoàng Dược Sư hay tâm hồn sâu lắng của Khúc Dương trưởng lão? Người đọc ắt hẳn phải giật mình trước âm mưu thâm hiểm của Tả Lãnh Thiền, cũng như cái dã tâm ghê gớm của Nhạc Bất Quần. Một kẻ không ngần ngại, bằng mọi thủ đoạn, tàn sát đồng đạo để thực hiện cho được tham vọng thống nhất Ngũ nhạc kiếm phái, rốt cuộc lại sa vào bẫy của một kẻ khác thâm hiểm cao tay hơn. Mà cả hai đều là đại tôn sư võ học của phe Chính giáo! Ai có thể không kinh hoàng trước cảnh tượng Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn một môn phái chuyên lấy từ bi của đức Phật làm gốc là Nga mi, lại thản nhiên vung Ý Thiên kiếm tàn sát một lúc mấy trăm giáo đồ Ma giáo trên hoang mạc, khi những người này không còn đủ sức chống cự! Một nhân vật trong phe bạch đạo có thể bình thản giết môt nhân vật khác trong phe hắc đạo và xem đó là một nhiệm vụ tất nhiên, với một lý do vô cùng đơn giản: người bị giết là người thuộc phe hắc đạo, có nghĩa đó là người xấu. Cái đạo lý mà họ làm cơ sở để dựa vào trong việc đồ sát được xem như là công đạo của võ lâm. Và ngược lại cũng thê đối với người thuộc phe hắc đạo. Người ta có thể an tâm giết người vì những cái nhãn hiệu mà người ta gán cho nhau.
Dường như Kim Dung muốn chứng minh cho ta thấy sự phân biệt rạch ròi tà chính là điều hoàn toàn không thực. Người đọc không còn tin vào cái đạo lý được đại diện bởi phe được coi như tượng trưng cho chính nghĩa. Phải, làm sao tin nỗi khi mà bên cạnh những bậc chân tu đạo hạnh như Phương Chứng đại sư, Xung Hư đạo trưởng, Không Kiến thần tăng hay khoáng đạt như Phong Thanh Dương, Hồng
17
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
Thất Công lại còn không ít những người gàn dỡ như Diệt Tuyệt s ư thái, tàn độc như Tả Lãnh Thiền, thâm hiểm như Nhạc Bất Quần và sa đọa đến mức thô bỉ như bọn môn đệ phái Toàn Chân? Và có thể xem thường Ma giáo được không, một khi đã nghe được khúc Tiếu ngạo giang hồ cao nhã cuả Trưởng lão Khúc Dương, hay được chứng kiến phong độ kiêu hùng của Bạch mi ưng vương Hân Thiên Chính trên Quang Minh đỉnh? Công thức cũ đã bị phá vỡ, và kéo theo nó là sự sụp đổ của định kiến về Chính Tà. Mọi việc không còn đơn giản như gán cho đối tượng một nhãn hiệu nào đó và an tâm đánh giá người đó qua cái nhãn mà y bị gán vào!
Những người anh hùng của Kim Dung đã không ít phen phải một mình trăn trở trước các vấn đề chính tà thiện ác nhằm xác định một đường đi, một giới tuyến cho chính mình. Họ thường bị đẩy đối diện với hai vấn nạn: một bên là giáo huấn của sư môn và truyền thống, bên kia là cái thực tế mà họ chứng kiến và sống. Lệnh Hồ Xung khi ngồi sám hối trên núi Hoa sơn đã nhiều phen băn hoăn trước lời giáo huấn của sư phụ lên án Ma giáo. Do bản tính khoáng đạt nên chỉ sau một lúc băn khoăn, gã viện dẫn một vài việc làm tồi tệ của phe Ma giáo và kết luận ngay: Ma giáo là một phe tồi tệ, đốn mạt. Hơn nữa, điều đó đã được khẳng định bởi sư phụ, sư nương là những người mà gã tôn kính, thì nó chắc chắn là đúng rồi! Cái cách qui kết ngây thơ và vội vã ấy chỉ có thể tạm thời làm yên tâm gã theo kiểu "bịt tai để ăn cắp nhạc ngựa" mà thôi. Thực ra trong tâm hồn gã, vấn đề chính tà đã bị nghi vấn hoá! Cái nền tảng đạo lý mà gã hấp thụ đã bắt đầu bị lung lay. Để rồi sau này, khi đã chứng kiến được cái thủ đoạn thâm độc của phái Tung sơn, và ngẫu nhiên giao du với các tay kiêu hùng trong Ma giáo như Hướng Vấn Thiên, Nhậm Ngã Hành thì cái khuôn khổ đạo lý ước thúc gã lại càng lung lay thêm nữa! Một cậu bé Vô Kị lang thang khắp giang hồ để chứng kiến một thế giới tà không ra tà, chính không ra chính. Mọi cái công thức chính tà, mọi cái khuôn khổ giáo huấn đều bị đổ vỡ, khi cậu thấy rõ và thậm chí còn là nạn nhân của sự thâm độc của các nhân vật phe Chính giáo. Các bài học vỡ lòng mà cậu tiếp thu từ các bậc trưởng bối phái Võ đương nó khác xa thực tế biết bao. Bên cạnh tinh thần trượng nghĩa của nhân vật Ma giáo là Thường Ngộ Xuân thì, dưới mắt Vô Kị, nhân cách của chưởng môn phái Côn luân Hà Thái Xung trông thật đê hèn và đáng khinh đến ngần nào! Khi nhìn thấy cảnh Diệt Tuyệt sư thái tàn sát giáo chúng Ma
18
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
giáo, Vô Kị vì cảm phục cái hào khí của bọn người bị truyền thống cho là tàn độc xấu xa đó, mà đã liều thân nhảy ra can thiệp. Tiếng nói của lương tri đã chiến thắng! Lúc đó, giữa cái gọi là Chính và Tà, ai đúng ai sai và thử hỏi ai tàn độc hơn ai?
Sẽ dễ dàng biết bao nếu để cho một kẻ độc ác như Tây độc Âu Dương Phong bị chết thảm để đền bù lại những điều tàn ác mà y đã gây cho người khác. Nhưng Kim Dung đã rất sâu sắc khi để hai nhân vật sống như hai thái cực của Thiện và Ác là Hồng Thất Công và Âu Dương Phong, sau khi giao đấu với nhau mấy ngày đêm, cùng ôm nhau chết trên đỉnh non tuyết lạnh. Mẹ Thiên Nhiên vĩ đại đã hoá giải tất cả ân cừu và ôm hai đứa con, dầu hư đốn hay tốt đẹp, vào trong vòng tay bao dung của mình. Và không phải ngẫu nhiên mà một nhân vật cao ngạo cổ quái như Hoàng Dược Sư lại gây được ấn tượng vô cùng sâu sắc đối với người đọc. Ông chẳng thèm coi cái đạo lý giang hồ vào đâu và suốt đời, ông đạp đổ thị phi, xóa nhòa tà chính mà chỉ tôn thờ một điều duy nhất: đó là sự tự do tuyệt đối của chính mình. Ông được gán ngoại hiệu Đông Tà chỉ vì đối với ông, mọi phân biệt chính tà thiện ác trên giang hồ đều là phi lý, thậm chí ngu xuẩn, vì chúng không hề có thực mà, chỉ là những nhãn hiệu! Xét cho cùng, đó cũng có thể là sự phản kháng lại định kiến xã hội của một tâm hồn minh triết, hay một loại l'homme révolté- con người phản kháng - của Albert Camus trong võ học! Một Tạ Tốn sẵn sàng trích dẫn sử sách để biện minh cho việc sát nhân của mình. Ta gặp lại lối "cưỡng từ đoạt lí" mà Đạo Chích dùng để công kích Khổng Tử trong Nam hoa kinh (Nam hoa kinh, Tạp thiên, chương Đạo chích).
Có phải Kim Dung muốn xoá bỏ mọi phân biệt chính tà để đẩy tất cả đến chỗ hoài nghi, xoá bỏ biên giới thị phi để đi đến một quan điểm hư vô chủ nghiã trong đức lí? Không, Kim Dung có một cách nhìn khác, đó là: nhìn đức lý dưới quan điểm võ học theo các nguyên lý Ảm và Dương trong tự nhiên, thay vì những tiêu thức đạo lý xã hội. Để thể hiện quan điểm này, Kim Dung đã chia võ học thành cặp phạm trù đối lập tương đối rõ rệt: Âm công và Dương công. Một bên thì biến hoá phức tạp, thâm hiểm và tàn độc, mà ta cho là Tà môn; một bên thì cương mãnh, dứt khoát, minh bạch, mà ta cho là Chính giáo. Nhưng đã là võ công thì dù là Tà hay Chính cũng đều giống nhau ở điểm là đều có thể giết người. Bản thân võ học, cũng như các thế lực trong thiên nhiên, vốn không có thiện ác, cũng không hề có sự
19
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
phân biệt chính tà mà tuỷ thuộc vào mục đích sử dụng, và tuỳ thuộc vào việc ta nhìn vấn đề dưới bình diện nào. Có lẽ Kim Dung muốn nối tiếp và triển khai quan điểm của bậc đại nho đời Tống là Trình Hạo: Thiện ác giai thiên lý (Thiện hay ác cũng đều là thiên lý cả ). Âm hay Dưong cũng chỉ là hai mặt của tự nhiên. Chúng đối lập bổ sung cho nhau, mâu thuẫn đối kháng và chuyển hoá lẫn nhau trong sự hoà điệu vĩ đại. Không hề có việc cái này sẽ triệt tiêu toàn bộ cái kia. Biểu tượng Thái cực trong nền văn hoá phưong Đông vẫn mãi mãi đon giản một cách cực kì minh triết: trong âm có dưong, trong dưong có âm. Võ công trong Thánh hỏa lệnh, dẫu có cao siêu đến đâu đi nữa, vẫn bị vây khổn trong vòng Phục ma khuyên của ba vị cao tăng Thiếu lâm tự. Thiên thủ như lai chưởng của Phưong Chứng đại sư biến hoá kì diệu là thế nhưng cũng không thể thắng nổi chưởng pháp chậm chạp, thô phác của Nhậm Ngã Hành!
Trang Tử đã viết hàng vạn lời trong Nam hoa kinh, đặc biệt là thiên Tề vật luận, chỉ để chứng minh rằng phân biệt rạch ròi thị phi là điều không thể, vì đó là những vấn đề của vô cùng1. Kim Dung viết hàng chục pho sách cũng là một cách để nối tiếp truyền thống trên. Đã hơn một lần, Kim Dung cố gắng đưa đến một tổng hợp chính tà, bằng tình yêu cũng như tình bằng hữu. Mối tình Trương Thúy Sơn và Hân Tô Tô cùng tình tri âm giữa Khúc Dương với Lưu Chính Phong cho dù có kết thúc trong đau thương đi nữa, thì điều đó cũng cho ta thấy nỗ lực của Kim Dung muốn chống lại định kiến, nhằm mở rộng tâm thức nhân gian để con người nhìn lại vấn đề! Dường như những tâm hồn lớn, Đông cũng như Tây, đều có cách nhìn sâu thẳm về bản chất của cái gọi là tà chính thị phi. Cái nhìn đó sẽ vượt qua đức lý thông thường, để nhận thức vấn đề dưới làn ánh sáng của Đức Lý Uyên Nguyên (Éthique Originelle ). Biết đâu cái Chính hôm nay sẽ là cái Tà của ngày mai, và cái Thị ngày mai sẽ là cái Phi của ngày sau nữa! Nguyễn Du ắt hẵn đã lịch hành hết cuộc dâu bể tang thương mới nói được " Thị phi tận thuộc thiên niên sự'1 2 (đúng sai là chuyện của ngàn năm -Vịnh Tần Cối tượng)
Nhìn qua phương Tây, ta vẫn có thể gặp được một chút hoà âm cộng hưởng. Một tâm hồn cuồng ngạo và nổi loạn với truyền thống
1 Thị diệc nhất vô cùng, phi diệc nhất vô cùng dã (Nam hoa kinh, Tề Vật luận)
2 Vịnh Tần cối tượng
20
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
như Đông tà Hoàng Dược Sư biết đâu sẽ tìm được mối đồng cảm thanh khí ứng cầu trong tư tưởng của một Shakespeare "There's nothing either good or bad but our thinking makes it so" (Không có gì tốt hay xấu, mà chính do ta nghĩ thế nào thì nó ra thế ấy - Hamlet, Act II, Scene II- Shakespeare), hay trong một Emerson: Good and bad are but names very readily transíerable to that or to this (Thiện ác chính tà cũng chỉ là các danh từ, chúng có thể hoán chuyển dễ dàng từ cái này sang cái kia) (Self-Reliance, Emerson, The Harvard Classics, p.62)
Có phải chăng đó là chỗ gặp gỡ nhỏ giữa Đông và Tây, trong những tâm hồn lớn?
21
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Lai rai chén rượu giang hồ
Núi hùng vĩ điệp trùng, cao phong tiếu bích vươn đến trời xanh, nhưng núi đẹp là nhờ mây. Sông mênh mông bát ngát, uốn khúc lượn lờ hay cuồng nộ thét gầm, nhưng sông linh là nhờ có giao long, thủy quái. Rừng bạt ngàn huyền bí nhưng rừng thâm u quyến rũ là nhờ có dị sĩ cao nhân. Khách hảo hán giang hồ phiêu bồng lang bạt mang bản chất hào sảng khoáng đạt một phần là nhờ rượu.
Nền văn hoá phương Đông không có một vị tửu thần như thần Dionysos trong thần thoại Hi Lạp, nhưng có lẽ chỉ ở phương Đông mới có một tửu đồ cuồng sĩ đời Tây Tấn tên là Lưu Linh ngông đến mức làm bài thơ Tửu đức tụng ca ngợi cái Đức của rượu, được lưu truyền ở đời, gây ảnh hưởng nhất định. Theo Tấn thư thì Lưu Linh, tự Bá Luân, quá ham mê uống rượu. Một hôm, vợ đập vỡ vò rượu, khóc bảo: "Ông uống rượu quá nhiều, đó không phải là cái đạo nhiếp sinh, phải bỏ bớt đi". Lưu Linh nói "Ta không thể tự cấm được, phải cầu quỉ thần lên để khấn nguyện, vậy phải đủ rượu thịt để làm lễ chứỉ" Vợ nghe lời làm theo. Lưu Linh bèn quỳ xuống khấn rằng:'Th/én sinh Lưu Linh, Dĩ tửu vi danh, Nhất ấm nhất hộc, Ngũ đẩu giải tinh, Phu nhon chi ngôn,Thận bất khả thính/A.
Văn học Trung quốc qua bao thời đại không thiếu thơ văn ca ngợi rượu. Thậm chí rất nhiều. Thông thường người ta chia ra làm ba cách uống rượu: tục tửu, thường tửu và tiên tửu. Tục tửu là uống đến chỗ phóng đãng bừa bãi, không làm chủ được mình. Thường tửu là uống xong cho sảng khoái, uống chỉ vì thích uống mà thôi. Tiên tửu là uống rượu như một thứ trợ hứng để bàn về thi ca, nghệ thuật nhằm di dưỡng tinh thần. Đến Kim Dung thì chén rượu lại được điểm xuyết thêm một phần ý vị nữa: đó là chén rượu lãng mạn hào hùng giữa chốn giang hồ. Đối với cuộc sống rong ruỗi phiêu bạt của khách võ lâm, có thể trong buổi tiễn đưa hoặc buổi trùng lai thiếu tiếng đàn tiếng hát, nhưng chắc chắn trong nỗi buồn li biệt hay trong niềm vui hội ngộ đó luôn luôn có rượu. Chung quanh chén rượu và ngay trong chén rượu có biết bao nhiêu tâm sự của muôn vạn mãnh đời. 1
1 Trời sinh ra Lưu Linh, do uống rượu mà nổi danh. Mỗi lần uống một hộc. uống năm đẩu mới giải tỉnh. Lời của đàn bà nói, Xin cẩn thận đừng nghe!
22
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
Khắp võ lâm, từ trà đình tửu quán cho đến chốn núi thẳm rừng sâu, hễ nơi đâu có mặt hảo hán giang hồ là y như nơi đó có rượu. Một điều đáng ghi nhận là trong tác phẩm Kim Dung, hầu như những nhân vật nào đam mê rượu cũng đều có tâm hồn hào sảng, phóng khoáng. Đó là một Tiêu Phong kiêu dũng, một Hồng Thất Công cương trực, một Lệnh Hồ Xung khoáng đạt, một Đan Thanh hào phóng v..v... Bang chủ Hồng Thất Công do tính ham rượu và nhậu nhẹt nên bị Hoàng Dung dùng mẹo lừa để ông phải truyền tuyệt kĩ "Hàng long thập bát chưởng' cho Quách Tĩnh. Đoàn Dự khi lang bạt giang hồ tìm Vương Ngọc Yến, thấy Tiêu Phong ngồi uống rượu trên Tùng hạc lâu mà sinh cảm mến, cùng nhau uống rượu rồi kết làm huynh đệ. Đó là cách uống rượu hào sảng của khách anh hùng. Đoàn Dự dùng Thiếu trạch kiếm để tiết hết rượu ra khỏi người theo đầu ngón tay út mới có thể đối ẩm với "đại tửu... lâm cao thử' là Tiêu Phong. Đó là cách uống rượu đầy tiểu xảo mà Đoàn Dự vô tình phát hiện. Và chỉ trong tác phẩm Kim Dung mới có được "pha" uống rượu thú vị thế kia.
Nếu chén rượu đầy mưu trí của Lệnh Hồ Xung trên Trích Tiên tửu lâu khi lừa Điền Bá Quang để cứu Nghi Lâm làm người đọc vừa buồn cười vừa thán phục thì chén rượu thương đau của gã trên đỉnh Hoa Sơn lạnh buốt lại đắm chìm trong nỗi nhớ thương cô tiểu sư muội Nhạc Linh San, làm cho người đọc ngậm ngùi. Một tên dâm tặc vô hạnh như Điền Bá Quang lại biết lẻn vào hầm rượu của Trích Tiên tửu lâu đập vỡ hết gần hai trăm vò rượu quí hiếm trên thế gian, chỉ giữ lại hai vò để mang lên đỉnh Hoa Sơn cùng đối ẩm với Lệnh Hồ Xung, đã làm cho người đọc phát sinh hảo cảm, dù gã đã bị cả hai phe hắc
bạch khinh bỉ là hạng "vô ác bất tác đích dâm tặc' (tên dâm tặc không có điều ác nào mà không làm ). Thử hỏi trong đời có mấy ai được uống một chén rượu chí tình đáng cảm động thế kia? Một chi tiết nhỏ đó thôi chắc cũng đủ khiến cho tửu đồ khắp thiên hạ cùng nhau nâng chén rượu tha thứ phần nào tội lỗi cho Điền Bá Quang! Đâu phải chỉ trong tiếng đàn, tiếng tiêu cao nhã mới có thể tạo nên mối đồng cảm tri âm như Khúc Dương trưởng lão và Lưu Chính Phong, mà một chén rượu đục trong chốn giang hồ vẫn đủ sức để tạo nên mối tình tri ngộ giữa một người mang tiếng bại hoại và một môn đồ phe chính giáo. Cái chân tâm trong chỗ giao tình vẫn luôn luôn nằm bên kia âm thanh cũng như luôn luôn nằm đằng sau chén rượu! Rượu hay âm nhạc lúc đó chỉ là phương tiện để con người tìm gặp nhau ở một điểm nào đó
23
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
trong chổ ý hợp tâm đầu. Khi Lệnh Hồ Xung tung chén rượu lên trời thành muôn ngàn giọt để cùng chia xẻ với quần hùng hắc đạo trên đỉnh Ngũ Bá cương, Kim Dung đã cực tả tính hào sảng của một gã tửu đồ giữa niềm thống khoái chân tình với hào kiệt giang hồ.
Hình ảnh kiêu hùng của Hướng vấn Thiên khi bị trói đôi tay mà vẫn trầm tĩnh ngồi uống rượu trong lương đình giữa vòng vây của hai phe hắc bạch, đã khiến Lệnh Hồ Xung trổi dậy hào khí, liều lĩnh chen vào ngồi đối ẩm để cùng xẻ chia hoạn nạn. Người đọc không ngạc nhiên vì sao sau này, khi Giáo chủ Nhật nguyệt thần giáo Nhậm Ngã Hành thống lĩnh giáo chúng vây Hoa Sơn để tiêu diệt Ngũ nhạc kiếm phái, đẩy Lệnh Hồ Xung vào thế đối địch, thì Hướng vấn Thiên là người đầu tiên bạo dạn cùng uống với Lệnh Hồ Xung một chén rượu cuối cùng ngay tại đương trường trước khi chuẩn bị cho một trận huyết chiến sắp tới, dù biết rõ Nhậm Ngã Hành đang ngấm ngầm phẫn nộ. Rồi lần lượt các tay hào kiệt khác trong Nhật nguyệt thần giáo cũng can đảm bước ra cạn chén với Lệnh Hồ Xung dù trong thâm tâm họ cũng hiểu rằng điều đó sẽ gây thịnh nộ cho Giáo chủ và cái giá phải trả đằng sau chén rượu kia có khi là cái chết. Biết bao nhiêu hào khí hùng tâm chứa chan trong một chén rượu nồng! Lệnh Hồ Xung kết giao hào kiệt giang hồ chủ yếu bằng rượu. Gặp bất kì người nào sành rượu và thích uống rượu là giao tình nẩy nở. Đối với Lệnh Hồ Xung dường như không có chính hay tà mà chỉ có rượu ngon hay dỡ và nhất người nâng chén rượu cùng uống có đáng mặt hảo hán để giao kết hay không mà thôi. Lúc đó thì ân oán thị phi đều có thể hoà tan trong chén rượu chân tình.
Nếu chén rượu của Lệnh Hồ Xung đầy tính lãng mạn thì chén rượu của Tiêu Phong lại rất mực hào hùng. Khi uống rượu vào những giây phút quyết định tử sinh thì chén rượu của Lệnh Hồ Xung vẫn mang chất khoái hoạt phiêu bồng còn chén rượu của Tiêu Phong lại tràn đầy hào khí! Tại Tụ Hiền trang, trước khi cùng quần hùng quyết đấu, Tiêu Phong vẫn cùng họ uống rượu để tuyệt tình. Chén rượu ném đi, giao tình đứt đoạn và cuộc chơi sinh tử bắt đầu. Nhưng đến chén rượu trên chùa Thiếu Lâm mới thật chan chứa hùng tâm. Khi tình cờ bị vây hãm trên đỉnh Thiếu Thất bởi vô số những cao thủ cự phách, Tiêu Phong trong cảnh lâm vào tuyệt địa vẫn hiên ngang uống rượu. Khi đánh lùi môt lúc cả ba đai cao thủ Du Thản Chi, Đinh Xuân Thu, Mô Dung Phục, khiến Tiêu Phong hào khí ngất trời, ông hô vệ sĩ mang
24
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
mấy túi rượu uống cạn một lúc gần hai mươi cân, rồi ngõ lời cùng Đoàn Dự: "Huynh đệ, ta và người hôm nay đồng sinh tủ, thật không uổng phí một phen kết nghĩa, sống cũng tốt mà chết cũng tốt, chúng ta hãy cùng nhau uống một trận cho thật thống khoáiì" (Huynh đệ, nễ ngã sinh tử vi cộng, bất uổng liễu kết nghĩa nhất trường, tử dã bãi, hoạt dã bãi, đại gia thống thống khoái khoái đích hát tha nhất trường!) Hào khí bức người của Tiêu Phong khiến nhà sư Hư Trúc cảm kích quên hết giới luật thanh qui, cùng nhau cạn chén. Cảnh tượng một tay đại hào kiệt là Tiêu Phong cùng anh chàng đồ gàn Đoàn Dự và nhà sư Hư Trúc làm lễ giao bái và uống rượu ngay trong vòng gươm đao trùng điệp để chuẩn bị mở một trường đại sát thật láng lai hào khí của võ lâm, khiến cho người đọc cảm thấy hùng tâm hứng khởi như đọc Sử ký Tư Mã Thiên đến đoạn Thái tử Đan tiễn Kinh Kha qua sông Dịch. Đó không phải là chén rượu liều lĩnh của bọn dũng phu cùng đường, mà là chén rượu của những tay hào tuấn xem cái chết như là "một cõi đi về 11 khi đã cảm nhận trọn vẹn được tấm chân tình của nghĩa đệ huynh! Sống ở nhân gian mà có được một người tri kỉ thì có chết đi cũng không đến nỗi uổng phí bình sinh! uống rượu hào hùng đến trình hạn ấy mới là chỗ mà thơ Lý Hạ gọi là Chân thị Kinh Kha nhất phiến tâm 1.
Nhưng uống rượu như Tiêu Phong hay Lệnh Hồ Xung cũng chỉ là cách uống rượu hào hùng thống khoái của hảo hán giang hồ, mà cách uống rượu của Đan Thanh tiên sinh - đệ tứ trang chủ Cô sơn Mai trang - hay Tổ Thiên Thu mới đúng là hạng tửu đồ thượng thừa sành điệu. Người đọc ắt hẵn phải thâm tạ Kim Dung đã tặng cho đời những trang tuyệt bút về rượu, uống nào phải dùng chén ấy. Chén ngọc hay chén lưu li làm rượu nổi thêm màu sắc , chén sừng tê làm rượu thêm hương vị 1 2. Uống rượu bồ đào phải dùng chén dạ quang, vì khi rót vào chén dạ quang thì rượu bồ đào sẽ có màu đỏ như máu, khiến cho quân sĩ ngoài biên tái uống vào thêm hùng khí chiến đấu3, uống rượu Thiệu hưng trạng nguyên hồng phải dùng chén cổ đời Bắc Tống, uống rượu Lê Hoa phải dùng chén Phỉ Thúy. Các quán rượu tại Hàng Châu
1 Đó mới thật sự là tấm lòng của Kinh Kha
2 Lưu li chung, hổ phách nùng (chén đựng rượu bằng ngọc lưu li làm màu hổ phách của rượu thêm đậm đà - Tha Lý Hạ ) hay Ngọc uyển thịnh lai hổ phách quang (chén ngọc làm sáng thêm màu hổ phách của rượu - Thơ Lý Bạch )
3 Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi (Rượu Bồ đào rót chén dạ quang, Toan uống Tỳ bà dục lên đàng - Thơ Vương Hàn)
25
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
thường treo cờ xanh trước tiệm rượu để ánh sáng chiếu màu xanh vào chén rượu Lê hoa như màu phỉ thuý 1 v.v... Thử hỏi mấy ai đọc Đường thi mà có thể cảm nhận ra chỗ tận diệu trong lời thơ thê kia, nếu như không có những "nhà tửu họd' như Tổ Thiên Thu? Tổ Thiên Thu phân tích về rượu làm ta nhớ lại lão ăn mày trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân bình phẩm về trà. Họ đều là những nghệ sĩ tài hoa trong làng trà làng rượu. Với Đan Thanh và Tổ Thiên Thu thì uống rượu đã trở thành một loại nghệ thuật, uống rượu đến mức đó là gần như nâng rượu lên thành Tửu đạo. Đáng tiếc thay, ở phương Đông, cái tạm gọi là Tửu đạo đó lại không được lịch sử phát triển thành một trào lưu như Trà đạo. Có lẽ vì nó giống như con dao hai lưỡi. Kẻ non nớt dùng nó ắt sẽ bị đứt tay. Tiên tửu chưa chắc đã thấy đâu mà tục tửu có thể đã ngập tràn trong thiên hạ!
Chén rượu ngày nay đã mang quá nhiều tục sắc. Tửu vị cho dẫu đã được nâng lên thêm mấy bậc nhưng tửu đạo lại bị hạ xuống thấp mấy tầng! Giá như Tổ Thiên Thu và Đan Thanh sống lại ắt hẵn sẽ mời tất cả các tửu đồ trong thiên hạ đời nay tụ tập lại để giảng cho nghe về tửu đạo và cùng nhau lai rai một chén rượu giang hồ!
1 Hồng tụ chức lăng khoa thị diệp, thanh kì cô tửu sấn Lê hoa (Tay áo lụa hồng khoe lá thị, cờ xanh quán rượu ánh Lê hoa - Thơ Bạch Cư Dị)
26
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Thử nhìn thế giới Kim Dung qua Triết học
Hiện sinh
Nếu như có một phép lạ nào đó khiến cho tất cả các nhân vật của Kim Dung được sống thực và đi vào cuộc đời, thì ắt hẳn ta sẽ chứng kiến được một thế giới vô cùng sinh động với đủ các thành phần của cuộc sống. Từ tăng ni đạo tục đến vua chúa, từ sĩ nông công thương đến nho y lý số, từ ngư tiều canh mục đến kì nhân dị sĩ, từ kĩ nữ đến giai nhân, từ đám ăn mày đến quan lại, từ bọn lưu manh đến hào kiệt anh hùng V.V.... Đê tiện lẫn thanh cao, tàn nhẫn lẫn bao dung, điêu trá lẫn chân tình, thị phi ân oán cùng cừu hận thương yêu, tất cả những thứ đó đan xen lẫn nhau trong tấm lưới thất tình lục dục rất đỗi đời thường. Điều đó đã làm cho cái thế giới giang hồ của Kim Dung trở nên cực kì sống động đến mức gần như kì diệu.
Chúng ta thử nhìn thế giới đó qua một vài khái niệm của triết học hiện sinh (Existentialisme) phương Tây. Mọi sự so sánh, dĩ nhiên, đều khập khiểng và lắm khi khiên cưỡng. Do đó, trong bài viết nhỏ này, tôi chỉ xin dừng lại ở mức độ cố gắng dùng một vài khái niệm quen thuộc của triết học hiện sinh1 để thử nhìn lại và đối chiếu với một tác gia phương Đông dưới một góc độ rất nhỏ. Đông Tây đôi khi có cách nhìn chung về một vấn đề, mặc dầu nhìn bên ngoài ta thấy như chúng được trình bày bằng những khái niệm khác hẳn, không ăn nhập gì nhau. Bên dưới các vấn đề tưởng chừng như biệt lập vẫn có một dòng nước ngầm, một dòng ẩn lưu, chảy xuyên suốt nối liền các bờ bến xa xôi. Luôn luôn có nhiều con đường để đi đến một đích chung. Thiên hạ hà tư hà lự? Thiên hạ đồng qui nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lự (Thiên hạ lo gì nghĩ gì? Cùng đi về một chỗ bằng những con đường khác nhau, cùng đến một chỗ bằng trăm mối suy tư khác nhau - Kinh Dịch, hệ từ thượng).
Thế giới giang hồ trong tác phẩm Kim Dung hấp dẫn người đọc trước hết và trên hết ở chỗ: không bao giờ nó là một thê giới giả tạo
1 Các câu, các từ tiếng Pháp dùng minh họa trong bài được trích dẫn rải rác từ một vài cuốn sách nhỏ biên khảo về Triết học phưong Tây. Khi diễn dịch, tôi mạn phép biến đổi đôi chút cho phù họp với ngôn ngữ võ hiệp của Kim Dung.
27
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
được qui định sẵn như ta thường thấy trong loại tiểu thuyết võ hiệp cổ điển. Trong tiểu thuyết võ hiệp cổ điển, bản chất của cái thế giới mà các người hùng đi vào thường được xem như là một cái gì mang tính ngầm định tất yếu. Mọi sự kiện từ tâm lý nhân vật đến diễn biến cứ tiến hành theo lối trực tuyến trên một con đường thẳng. Một thế giới cứng nhắc của lý trí mà không có tiếng nói thực của tâm hồn, nó hiện ra như một cái khung để mọi người phải thích ứng vào. Nói theo ngôn ngữ của triết học hiện sinh thì đó là một thê giới mà yếu tính của nó quyết định thể cách tồn tại của con người., có nghĩa là yếu tính đi trước tồn tại (L'essence precède 1'existence) Thế giới như thế chỉ là một thế giới chết của các bản chất im lìm (substances immobiles), theo kiểu triết học cổ điển phưong Tây.
Kim Dung, trái lại, muốn hiển thị một thế giới rất thực, một loại le monde en tant qu'il est (thế giới đúng như nó là vậy) dưới mắt các hào sĩ giang hồ, một thê giới được phóng chiếu từ đời sống thực của nội tâm và kinh nghiệm. Quan điểm của Kim Dung về thế giới có điểm tương đồng với của triết học hiện sinh phương Tây mà đại biểu nổi bật nhất là J.p. Sartre với nguyên lý thứ nhất "L'existence precède 1'essence" (Tồn tại đi trước yếu tính). Nghĩa là tôi phải sống, phải tồn tại, phải đem máu xương sinh mệnh ra chơi trò chơi sinh tử với cõi đời bằng tất cả dam mê, bằng cả thân tâm, bằng cả máu và nước mắt rồi mới dần dà xác định được đâu là yếu tính (essence) của thế giới, đâu là cái 11chân diện mực" của cõi đời. Chứ hoàn toàn không phải thê giới đã mang sẵn những yếu tính nào đấy và khi bước vào thế giới đó, tôi buộc phải sống rập khuôn theo.
Thế giới mà người anh hùng của Kim Dung bước vào luôn luôn là một thế giới đầy những yếu tố ngẫu nhiên (contingences) và đầy những khám phá bất ngờ. Je suisịetté dans le monde sans accun choix de ma part.(Ta bị ném vào một thế giới, vào một cõi giang hồ mà không có quyền chọn lựa gì về phần ta cả). Khi bị ném vào một thế giới luôn luôn ở trạng thái báo động thường trực, sinh tử lửng lơ, một thê giới chính tà lẫn lộn, thị phi rối răm chằng chịt như thê thì họ buộc phải xác định một giới tuyến, một căn cơ lập mệnh an thân cho chính mình. Thê giới bỗng nhiên trở nên xa lạ, mênh mông và đầy ắp những câu hỏi. Nó mất đi sắc màu quen thuộc cũ. Mọi sự kiện, mọi vấn đề tưởng chừng như bền vững thâm căn cô đê trong truyền thống bỗng dưng trở nên bấp bênh phù động, đòi hỏi phải được xác lập lại từ cơ
28
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
sở. Đôi lúc, họ không còn hiểu được họ nữa. Cõi giang hồ đầy biến động sẽ đẩy họ xa dần cái mục tiêu dự kiến ban đầu của họ, rồi họ bỗng nhiên như không còn là mình mà trở thành một người khác. Je suis l'autre (Tôi là người khác). Lệnh Hồ Xung bỗng trở thành bằng hữu của phe Ma giáo, Đoàn Dự từ một vương tử bỗng trở thanh anh chàng phiêu lãng giang hồ, môn đồ Thiếu Lâm là Hư Trúc bỗng trở
thành chưởng môn phái Tiêu Dao Chaccun est 1'autre et personne
n'est soi (mỗi người đều trở thành một người khác và không còn ai là chính mình nữa).
Thê giới của Kim Dung không bao giờ là một thê giới hoàn chỉnh, mà là một thế giới đang "trở thành" (devenir) để chờ đợi con người xác lập cho nó một giá trị, một thế giới chờ đợi để được khám phá. Cái thê giới ấy chỉ được thành hình dần dần theo từng bước chân lịch hành của các nhân vật giữa cõi giang hồ. Thê giới đó sẽ đưa dần các người hùng vào những cõi bí ẩn và vô cùng của tâm hồn con người cũng như của thiên nhiên. Quá trình rong ruỗi trên chốn giang hồ chính là quá trình người anh hùng của Kim Dung đi tìm lại chính con người thực của mình và xác định "chân diện mục" của thế giới.
Đó có thể là trường hợp hài hước của một gã ăn xin cầu bơ cầu bất, không tên không tuổi, luôn bị gọi bằng cái tên khinh bỉ là "Cẩu tạp chửng" (chó lộn giống), bỗng dưng một hôm được tôn xưng là bang chủ Truờng Lạc bang thanh uy chấn động giang hồ. Hoặc thống thiết và bi tráng như trường hợp một Tiêu Phong kiêu hùng bỗng một hôm phát hiện ra mình không phải là người Hán, mà chính là người Khất Đan - một dân tộc bị ông xem như kẻ thù. Tiếp đó, ông lại bị Định Mệnh xô vào một Mê cung cay đắng dị thường mà không hiểu vì sao. Hoặc đau đớn hoang mang như trường hợp cậu bé Vô Kị từ cuộc sống thanh thản vô ưu trên Băng hỏa đảo, vừa đặt chân đến Trung thổ, liền bị ném ngay vào một thế giới xa lạ đầy những bi kịch hận thù: song thân bị bức tử, bản thân bị trọng thương thập tử nhất sinh. Hoặc lãng mạn khoái hoạt như một Lệnh Hồ Xung khi rời chùa Thiếu lâm, phân vân không biết mình là người của phe Chính giáo hay Tà giáo, như một loại cô hồn vô chủ giữa cõi giang hồ, đứng giữa đường gọi người ta lại giết mình!
Khi người hùng của Kim Dung bị ném vào một thế giới như thế thì y thường chỉ có một mình. Y là cái điểm tựa duy nhất cho chính mình trong vấn đề xác định đâu là chân tướng của cõi giang hồ hay ý
29
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
nghĩa của cuộc sống! Mọi định kiến và khuôn khổ mà y hấp thụ được từ truyền thống đều bị lay chuyển tận căn để và đôi khi sụp đổ hoàn toàn. Chính trong đám rối bòng bong ấy - thậm chí trong nỗi hoang mang giữa niềm tin bị đỗ vỡ tan hoang ấy - y buộc phải tự mình mò mẫm suy gẫm để tìm cho ra cái 11 đáp án 11 cho các bi kịch, cho các ngộ nhận, cho các oan nghiệt tồn sinh, cho những cảnh ngộ trớ trêu mà số phận tự nhiên đổ cả lên đầu y.
Partout en routes íaisant expérience, inexpert sans issue, il arrive au Rien.... Allant sur toutes les routes sans trouver d'issue, il est reịeteté hors de tout rapport avec la quiétude íamilière, et la ruine, le malheur tombe sur lui. (Khắp nơi trên con đường mò mẫm ngược xuôi giữa cõi giang hồ để tích luỹ kinh nghiệm, không có lối thoát, y đi dần đến chỗ Hư không trống rỗng.... Khi rong ruỗi trên khắp nẽo giang hồ mà không tìm ra lối thoát, y lại bị ném ra ngoài tất cả các mối tương quan với sự yên bình quen thuộc, và bao sự sụp đổ, tai họa đổ cả lên đời y).
Đó là một Lệnh Hồ Xung bị trục xuất khỏi phái Hoa sơn, vĩnh viễn đánh mất những ngày tháng tiêu dao hạnh phúc cùng Nhạc Linh San bên suối nước, rồi chịu hàm oan giết sư đệ, cướp kiếm phổ. Đó là một Tiêu Phong bị truất khỏi chức ngôi Bang chủ Cái Bang, bỗng nhiên trở thành kẻ thù không đội trời chung của võ lâm đồng đạo. Đó là một Trương Vô Kị không còn Băng hỏa đảo, mang tấm thân bệnh hoạn một mình xuôi ngược khắp giang hồ.
Một Tiêu Phong kiêu hùng, nếu có thiên hướng về trầm tư suy niệm thì những oan nghiệt mà ông phải gánh chịu cũng đã quá đủ để ông đã trở thành nhà hiền triết khi đối mặt với Mê cung Định Mệnh trong cái le monde absurd (thê giới phi lí) kia rồi. Ông gần như bị phủ nhận và tước bỏ tất cả: danh vọng, bạn hữu, quê hương, sự nghiệp, thân phận ... để trở thành một con số không trống rỗng - một Le Néant. Nhưng vốn mang bản chất sôi nổi anh hùng, nên ông đã quyết liệt đẩy tất cả thị phi ân oán cùng mọi oan nghiệt tồn sinh của đời mình đến chổ sơn cùng thủy tận, quyết đem tính mệnh ra đối chọi với Số mệnh (Fatalité). Người hùng Tiêu Phong của Kim Dung thay vì khẳng định La vie est absurde par 1'essence (cuộc sống phi lý ngay tự bản chất), lại kiêu dũng đối mặt với bi kịch trần gian theo kiểu những người anh hùng chinh phục (Les Conquérants) của A. Malraux.
30
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Le plus grand mỵstère n'est pas que nous soyons ịetés au hasard (sur la terre) ....c'est que/ dans cette prison, nous tirons de nous-même des images assez puisantes pour nier notre néant. (Điều huyền mật lớn
nhất, không phải ở chỗ ta tình cờ bị ném vào cõi giang hồ mà
chính ở chỗ, trong cõi tù ngục ấy, chúng ta rút ra được từ bản thân mình những hình ảnh đủ mãnh liệt để phủ nhận cái hư không trống rỗng của chính ta).
Cái thế giới giang hồ của Kim Dung vừa hấp dẫn cám dỗ, vừa mang tính đe dọa. Le monde? Une porte donnant sur des déserts muets et glacés. (Cõi giang hồ ư? Đó là cánh cửa mở ra những sa mạc lặng câm và lạnh giá.). Cõi giang hồ đó sẽ đưa các người hùng đến với một thế giới mà từ con người cho đến thiên nhiên, từ nội tâm cho đến ngoại tại, tất cả đều mênh mông và đầy sóng gió. Những hải đảo xa xôi, những sơn động hoang tịch, những sa mạc mênh mông....khắp nơi đều in dấu chân của khách giang hồ. Lạc vào tuyệt cốc thâm u, rơi vào thung lũng tít mù tưởng chừng như không có sự sống của con người, ta lại tìm được bí cấp kì thư võ học, thậm chí lại gặp các bậc tuyệt thế cao nhân. Rồi cả các bậc tiêu dao thế ngoại cũng hiếm khi thoát khỏi chuyện thị phi ân oán. Phương Chứng đại sư và Xung Hư đạo trưởng phải lặn lội đến hội đàm cùng Lệnh Hồ Xung trên đỉnh núi Hằng sơn, Không Kiến thần tăng buộc lòng phải can thiệp vào chuyện hận cừu giữa thầy trò Thành Khôn - Tạ Tốn. Cho dẫu tất cả bậc cao nhân lánh đời đó có nhập thế cũng đều vì tâm đại bi muốn cứu vãn sát kiếp cho võ lâm, thì điều đó cũng cho ta thấy được cõi giang hồ của Kim Dung nối kết tất cả các nhân vật vào một màn lưới chằng chịt hầu như không bỏ sót một ai. Trong cái thế giới ấy, quá khứ, hiện tại lại đan xen lẫn nhau. Sự xuất hiện tình cờ của một môn võ thất truyền nào đó trên giang hồ, sẽ làm sống lại cả một quá khứ hoang đường. Và sẽ được một nhân vật nào đó nối tiếp như kế thừa một truyền thống thần bí xa xôi.
Đối chiếu thế giới Kim Dung với triết học hiện sinh, dầu chỉ ở mức độ khái niệm và trên một bình diện rất hẹp, vẫn là một chủ đề lớn đối với người viết. Tôi chỉ mạo muội trình bày những suy niệm riêng của mình với ước mong cùng bạn đọc tìm được một thông đạo mới để tiếp cận và đi vào thế giới của Kim Dung.
31
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Nhiệm màu hai chữ cơ duyên
Một trong những cây trụ khổng lồ chống đỡtoà lâu đài minh triết Phật giáo là giáo lý Duyên Khởi. Triết học Phật giáo chia ra thành nhiều loại duyên khởi như: Nghiệp cảm duyên khởi, A lại da duyên khởi, Chân như duyên khởi và Pháp giới Duyên khởi. Nhưng dù có phân chia như thê nào đi nữa, thì kinh điển chỉ vẫn muốn nhấn mạnh một điều: tất cả các pháp, nghĩa là mọi sự kiện và mọi vật trên đời, không thể tồn tại độc lập, mà đều hỗ tưong lẫn nhau trong chu trình sinh diệt nối tiếp nhau không ngừng nghỉ. Thế giới và cõi đời - khi được nhìn qua lý Duyên khởi - như kết nối đan xen vào nhau trong mạng lưới chằng chịt vô tận. Một cánh tay đưa lên là cả thế giới đều chuyển rung theo, trong những dao động vật lý vô cùng vi tế. Một sự việc tưởng chừng như ngẫu nhiên, nghĩa là xảy ra không theo một tiến trình logic nào cả, thì theo người phương Đông, ở chỗ thâm sâu vẫn có một nguyên cớ ẩn mật mà ta không thể nào hiểu được. "Vẻ chi ăn uống sự thường, cũng còn tiền định kháĩ thương lọ là " (Cung óan ngâm khúĩc). Và từ đó, mọi việc ngẫu nhiên hay tất yếu thường được lý giải bằng hai chữ cơ duyên. Những khắc khoải tìm hiểu căn do của sự việc đã được hai chữ đó đặt một dấu chấm hết, vô cùng nhẹ nhàng và gọn ghẽ!
Người phương Đông cho rằng sự can thiệp quá mức của lý trí vào mọi công việc thường chỉ dẫn đến kết quả ngoài mong muốn, như ý một bài cổ thi "Hữu Ý tài hoa hoa bất phát, vô tâm tháp liễu liễu thành âm" (Cố ý trồng hoa hoa chẳng nở, Vô tình cắm liễu liễu xanh um). Truyền thống phương Đông vẫn luôn đề cao sự hồn nhiên vô tâm, và cuộc sống vô tư như con trẻ. Họ muốn được như viên ngọc thô chưa dẻo gọt. Việc đến không ngăn, việc đi không cản. Cứ ung dung mà sống với tự nhiên, với cõi đời, không tham vọng cưỡng cầu. Vì nếu không có cơ duyên, thì mọi mưu toan cưỡng cầu thường chỉ phí công vô ích. Mà khi con người nhận chân ra điều đó, thì lắm khi đã đối diện với cảnh ngộ dở khóc dở cười. Trong tác phẩm của Kim Dung, những sự việc bất ngờ, những tình huống gay cấn nhất càng lộ ý nghĩa dưới ánh sáng của hai chữ cơ duyên. Khi những mọi nỗ lực của con người đều đi đến chỗ vô vọng, thì lại có những sự kiện xảy ra
32
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
bất ngờ ngoài tiên liệu, vẫn luôn có một chỗ cho những biến cố ngoài tầm trắc lượng của lý trí tính toán so đo.
Phong Thanh Dưong bất ngờ xuất hiện trên đỉnh Hoa Son, truyền thụ "Độc cô kiếm pháp" cho Lệnh Hồ Xung, rồi biến mất như con thần long phiêu hốt trong sương mù của huyền thọai. Ây cũng là do một chút tiền duyên với gã tửu đồ lãng tử Lệnh Hồ Xung. Trong khi bao cao thủ vận dụng hết tâm trí để tìm cách phá giải cho bằng được thế cờ bí hiểm của phái Tiêu Dao nhưng đều thất bại, thì chú tiểu xấu xí Hư Trúc lại vô tâm mà phá được. Và chú tiểu chùa Thiếu lâm đó bỗng dưng trở thành chưởng môn phái Tiêu Dao, điều mà Tinh tú lão quái Đinh Xuân Thu dùng mọi thủ đoạn tàn độc để mong muốn làm cho bằng được. Tiếp theo, nhờ tấm lòng đôn hậu muốn cứu một cô bé, mà rốt cục Hư Trúc trở thành chủ nhân cung Linh Thứu, và phò mã nước Tây Hạ. Có lẽ Kim Dung muốn sắp đặt mọi diễn biến xảy ra giống như một câu chuyện cổ tích hoang đường, trong đó chú vịt con xấu xí biến thành con thiên nga lộng lẫy. Nhưng đó là gì, nếu không phải là do môt chút cơ duyên?
Hình ảnh thiểu não của Mộ Dung Phục xuôi Bắc ngược Nam, lao tâm khổ tứ, dùng mọi thủ đọan để mưu đồ phục quốc ngẫm cũng đáng thương. Con rồng trong võ lâm đó thất bại hoàn toàn, trong sự nghiệp lẫn tình yêu, cũng do không liễu ngộ được chữ duyên! Mà điều đó đâu phải dễ dàng gì, khi mà con người còn say mê chìm đắm trong thê giới của cơ mưu, và cơ duyên chưa có điều kiện để chín muồi. Chỉ có những người đại trí đại dũng như Tạ Tốn, Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn mới đủ thông tuệ để sớm nhận ra sự nhiệm màu của hai chữ cơ duyên. Trong khi biết bao nhiêu người khao khát và ước mơ cái thân phận và bãn lĩnh của Hư Trúc, thì chú lại sẵn sàng chấp nhận phế bỏ toàn bộ võ công của phái Tiêu Dao mà mình đã học, để mong muốn trở thành một chú tiểu bình thường của chùa Thiếu lâm, ngày ngày tụng kinh niệm Phật nhưng lại không được. Bởi vì chú chưa có được cơ duyên với cửa Thiền. Còn Cưu Ma Trí, sau bao tháng năm, bằng trí tuệ tuyệt vời, tích lũy mọi võ công trong thiên hạ để mong đạt được bãn lĩnh vô địch, chỉ khi bị Đoàn Dự dùng Chu cáp thần công hút hết nội lực, thì ông mới hội đủ cơ duyên để "khóat nhiên đại ngộ" và trở thành vị cao tăng xứ Thổ Phồn! Cuộc đời và số phận của con người vẫn âm thầm trôi theo một dòng chảy rất đỗi lạ lùng, bên ngoài tầm của dự kiến với mưu toan.
33
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Nhưng điển hình nhất có lẽ câu chuyện của Thạch Phá Thiên lĩnh hội được huyền công trên Long Mộc đảo, trong tác phẩm Hiệp Khách Hành. Hai vị Long Mộc đảo chủ đã phí tổn biết bao tâm huyết trong suốt bốn mươi năm trời để nghiên cứu đồ phổ Thái huyền kinh trên vách đá. Cứ mười lăm năm một lần, họ phái hai vị sứ giả mang Thưởng thiện phạt ác lệnh vào tận Trung Nguyên, tìm cách mời các đại cao thủ uyên bác về cùng mình tham cứu. Một Hàn lâm viện về võ học, với tất cả những cái đầu uyên bác bậc nhất của võ lâm - những "giáo sư võ học đầu ngành" - được hình thành trên đảo suốt bao năm trời. Khối lượng chất xám khổng lồ của những cao thủ tuyệt đỉnh đều tập trung vào việc tìm ra đáp án cho các đồ phổ của huyền công. Rốt cuộc tất cả chỉ là con số không hão huyền to tướng. Tiếng sóng gầm ngoài Long Mộc đảo thổi thời gian bay qua những mái đầu bạc trắng, như để chế diễu mọi nỗ lực của lý trí con người. Đặc điểm của lý trí con người là một khi đã khát khao tìm hiểu một vấn đề nào đó mà không hiểu được, thì lại càng khắc khoải khổ đau. Nếu như lý trí là món quà vô giá của Tự nhiên ban tặng cho con người, để con người tìm hiểu và lý giải mọi sự trên đời, thì lắm khi nó cũng là nguyên nhân đem lại cho con người vô vàn khổ não. Tất cả các nhân vật võ lâm mà giang hồ ngỡ là đã bị chết đó, đều miệt mài nghiên cứu võ công. Lý trí kiên cường và kiêu hãnh vẫn phải thúc thủ, khi cứ hì hục húc đầu mãi vào bức tường kim cương của những điều huyền mật. Và thần công trên vách đá đó chỉ chờ người hữu duyên là gã ăn xin dốt đặc cán mai Thạch Phá Thiên!
Tiếng cười chua chát của hai vị đảo chủ, khi nhận ra chân tướng của vấn đề, nghe đau đớn mà thâm thúy biết bao. Họ muốn đem lý trí và kiến thức để phá vỡ huyền cơ, té ra mọi thứ đều giản đơn và hiển lộ rành rành ra đấy, mà không một ai chịu tĩnh tâm để tìm hiểu. Bao văn tự rườm rà trên vách đá không những không có ích, mà còn đưa lý trí vào chỗ lầm lạc. Tất cả cao thủ uyên bác đều cho đó là những lời chú giải của đồ phổ, nên vận dụng mọi tri thức để tranh biện nhau. Kiến văn càng thâm thúy, thì tranh luận hăng say, và như thế lại càng đi xa tâm điểm. Rốt cuộc chỉ có Thạch Phá Thiên, nhờ không biết chữ và có tấm lòng trung hậu, nên hồn nhiên lĩnh hội được huyền công. Trong truyền thống phương Đông, thì kiến thức thường là chướng ngại ngăn cản con đường đi vào tâm đạo, mà Phật giáo gọi là "Sở tri chướng". Cái thê giới tưởng chừng tầm thường quanh ta vẫn luôn ngập
34
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
tràn những điều huyền mật, với "bình thường tâm thị đạo/A (tâm bình thường là đạo) của Thiền tông. Nhưng bi kịch lại khởi đầu khi lý trí con người luôn muốn quan trọng hóa mọi việc, và thường miễn cưỡng chấp nhận những điều dung dị bình thường. Sự thông minh đầy mưu mẹo của lý trí luôn muốn đánh bạt đi tiếng gọi lay lắt và đằm thắm của lưong tri. Mà trong khi chính tiếng gọi của lương tri mới thường vạch ra con đường đi đích thực cho chúng ta, những khi ta lạc vào những nghịch cảnh éo le trong Mê Cung của cuộc sống. Hai chữ cơ duyên rất mực nhiệm màu vẫn thắng hai chữ cơ tâm đầy trí xảo.
Bi tráng biết bao là hình ảnh đảo Long Mộc chuẩn bị phát nổ, sau khi Thạch Phá Thiên học được tất cả thần công trên vách đá. Tấm màn huyền ẩn che phủ vách đá suốt bốn mươi năm đã được vén lên, thì hòn đảo không còn lý do gì để tồn tại nữa. Mọi sự đều trở nên đơn giản đến mức xót xa. Bậc tiền bối cao nhân sáng tạo nên huyền công ấy dường như muốn trao lại cho đời sau một công án, để diễu cợt trí thông minh cơ xảo của con người. Và công án đó chỉ chờ người hữu duyên liễu ngộ. Hai vị Long Mộc đảo chủ không còn ham muốn học thần công của Thái huyền kinh đó nữa, cho dù các bí mật của đồ phổ đã được giải quyết xong, và đáp án mà họ muốn tìm, sau hơn nửa đời người, đã hiển bày trước mắt. Thần công thì thần diệu đấy, nhưng than ôi, bài học về hai chữ cơ duyên còn thâm sâu hơn gấp vạn lần! Bạch thủ Thái huyền kinh. Phí bỏ bao tâm huyết để nghiên cứu kinh thư cho đến khi đầu bạc trắng, sức cùng lực kiệt, mới chợt giật mình hiểu ra rằng mình đã lạc lõng trong thê giới của cơ tâm Cũng như nhiều người đọc kinh Phật suốt cả đời, hoặc đắm chìm trong muôn vạn cảnh đời dâu bể, cũng chỉ để ngộ ra được ý nghĩa thâm huyền của chữ "duyên". Tâm cơ phí uổng một đời, thần công vách đá chờ ngưòi hữu duyên, dễ gì nhân định thắng thiênì
Ưhomme propose. Dieu dispose: Mưu sự tại nhơn thành sự tại thiên. Câu ngạn ngữ bình dị đó phải chăng cũng gợi lên được một chút hòa điệu giữa hai cõi Đông Tây? 1
1 (Tâm bình thường là đạo). Đây là câu nói lừng danh của Mã Tổ Đạo Nhất (709-788) một khuôn mặt chói ngời trong lịch sử Thiền tông Trung Hoa. Có thể nói Thiền tông Trung Hoa thực sự hưng thịnh khởi đầu từ ngài
35
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Võ học: đường về tâm pháp
Tặng Dương Ngọc Dũng
Thế giới ngoại tại vốn cực kỷ phồn tạp, muôn vẻ nghìn màu và không ngừng biến động. Vạn hữu luôn trôi chảy như dòng thác đổ, luôn biến dịch trong từng mỗi sát na. Thế giới sâm la vạn tượng ở sát na này đã khác với cái thế giới trong một sát na trước đó. Vạn hữu luôn mới tinh khôi, như lần đầu tiên được sáng tạo. Do đó, chỉ có cái- giờ-đây mới là cái thực. Theo truyền thống phương Đông, tìm hiểu thế giới mà cứ mãi chạy theo hình tướng bên ngoài, đem tâm đuổi theo vật, đó là nỗi nguy hiểm khôn lường. Trang Tử bảo "Ngô sinh dã hữu nhai) nhi tri dã vô nhai. Dĩ hữu nhai tùy vô nhaiđãi hỷỉ " (Đời ta vốn có hạn, mà cái biết thì vô hạn. Đem cái hữu hạn để theo đuổi cái vô hạn thì nguy vậy! - Nam hoa kinh, Dưỡng sinh chủ).
Các bậc chân nhân phương Đông khi muốn khám phá cái mênh mông diệu vợi của thế giới ngoại tại thì lại quay vào chỗ tận cùng sâu thẳm của tâm hồn, để đối diện với cái chân tính của mình. Giữ lòng như tấm gương sáng để nhìn thấy cả thế giới hiển lộ toàn chân, đó chính là tâm pháp mầu nhiệm của phương Đông. Võ học, đạo học, y học, thư pháp, hội họa, thi ca ... khi hiển thị được tâm pháp đó đều trở thành những phương tiện thiện xảo giúp con người hồn nhiên quay về nẻo đạo. Thấu hiểu Dịch học chính là nâng cao y thuật, tập viết thư pháp chính là rèn luyện võ công. Tiếng đàn, nét bút đều có thể hàm chứa tinh hoa của võ học.
Tương truyền Bồ Đề Đạt Ma - vị sơ tổ của Thiền tông Đông độ - người dựng lên ngọn Thiền phong cao chót vót giữa lịch sử tư tưởng Trung Quốc cũng chính là người đã khai sáng môn võ Thiếu Lâm được xem như là cái nôi của võ học Trung Quốc. Dẫu Bồ Đề Đạt Ma không phải là nhân vật lịch sử đi nữa thì điều đó cũng cho thấy tinh thần phương Đông vẫn luôn nỗ lực kết hợp võ công và triết giáo. Nói theo thuật ngữ triết học Phật giáo thì tinh thần Thiền tông là "Thể", còn võ học có thể xem như là "Dụng". Dụng là phương tiện để biểu hiện Thể, còn Thể là mạch ngầm hàm dưỡng cho Dụng. Chỉ có tác giả thấm nhuần được "tâm pháp phương Đông" như Kim Dung mới có thể
36
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
đưa nó hóa thân vào tiểu thuyết kiếm hiệp một cách nhẹ nhàng "niêm hoa vi tiếu". Nhiều tác giả sách võ hiệp luôn muốn để các nhân vật chính của mình phô trương bản lĩnh và tài hoa một cách cường điệu, với những tình tiết lâm ly. Nhân vật chính luôn phải có cái gì đó thật khác người: đẹp trai, hào hoa phong nhã, võ công trùm đời, và luôn lạnh lùng lập dị, với những lớp sương mù huyền thoại. Chung quanh họ phải là rượu và những giai nhân say mê đắm đuối. Những thứ trang sức rẽ tiền đó có thể hấp dẫn được một số độc giả nhưng nó sẽ nhanh chóng trở thành phù phiếm, như con rồng đã vẽ xong trên tờ giấy. Trông thật đẹp nhưng lại cứng đờ thiếu sinh khí. Điều quan trọng phải có một ngọn bút thần để điểm mắt nó. Đó gọi là "Họa long điểm nhãn" theo truyền thống phương Đông. Được "điểm nhãn" thì con rồng giấy sẽ biến thành rồng thật, nó sẽ cuộn mình ra khởi tờ giấy chết để bay vút lên trời cao lồng lộng. Chỉ lúc đó nó mới thực làm mưa làm gió để hý lộng giữa sương mù. Ngọn bút điểm nhãn ấy chính là "huyền môn tâm pháp phương Đông".
Bao thế kỷ qua, trước sự tấn công dữ dội của nền văn minh cơ khí phương Tây, tâm pháp phương Đông đã nhanh chóng bị đánh bại bởi những thế hệ học giả sính lô gíc học. Và nó lại âm thầm quay về ẩn tàng trong các thiền viện, trong nghệ thuật bắn cung, trong kiếm đạo Nhật Bản ... để tiếp tục hàm dưỡng cho thê giới tâm linh huyền ẩn của phương Đông. Và Kim Dung là một trong những tác giả hiếm hoi biết cách nắm bắt được tính thần ấy để đưa tiểu thuyết võ hiệp một cách tài tình. Trong tinh thần ấy, võ học không còn là môi trường phô diễn kỹ thuật, mà phương tiện để biểu hiện tâm pháp. Cái ầm ĩ huyên náo của những anh chàng Sơn Đông mãi võ sẽ không còn nữa, vì võ học khi đến đỉnh cao, tức trên đường quay về tâm pháp, cũng tiến dần đến chỗ tinh nhất. Tự thân võ học sẽ mất đi tất cả những mọi chi tiết rườm rà, để kết tinh thành cái đơn nhất. Rồi chính cái đơn nhất đó tự nó cũng tiêu dung lặng lẽ, hòa nhập với Tâm. Mà tâm lại không có hình tướng, nhưng quán thông khắp mười phương. "Phóng chi tắc di lục hợp; thoái chi tắc tàng ư mật" (khi buông ra thì bao trùm khắp sáu cõi, khi thu về thì ẩn nơi sâu kín) (Trung Dung). Cừ tùy nghi mà vận dụng. Giữ lòng như gương sáng. Hư kỳ tâm. Tĩnh và Định. Cứ tùy vật đến mà cảm ứng. Bao nhiêu kỹ thuật về côn, quyền, đao, kiếm, chưởng, chỉ... cứ tự nhiên lưu chuyển và phản chiếu toàn bộ trong tấm gương lòng. Đó mới là cực đỉnh của võ học.
37
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Lâm Tê làm một thiền sư vĩ đại đời Đường. Sư chuyên giáo hóa đồ đệ bằng những tiếng hét và cây gậy thay cho những bài thuyết pháp. Những lúc cần phải thuyết pháp thì những lời thuyết pháp của sư cũng rực cháy như có lửa, để biến thành một tiếng hét vang rền khắp tùng lâm. "Đạo /ưu, tâm pháp vô hình, quán thông thập phưong. Tại nhãn viết kiến. Tại nhĩ viết thính. Tại tỵ khứu hương. Tại khẩu đàm luận. Tại thủ chấp tróc. Bản thị nhất tinh minh, phân vi lục hòa hợp. Nhất tâm ký vô, tùy xứ giải thoáC. (Này các đạo lưu, tâm pháp vô hình, nhưng thông suốt cả mười phưong. Tại mắt là thấy. Tại tai là nghe. Tại mũi ngửi mùi. Tại miệng đàm luận. Tại tay nắm bắt. vốn là một tinh minh, phân ra thành sáu hòa hợp. Một tâm đã không thì cứ tùy chỗ mà giải thoát). Đó cũng chính là tâm pháp trong võ học đỉnh cao. Khi đã triệt ngộ được diệu lý của võ thì võ công hoàn toàn hợp nhất với thân tâm. Chiêu thức tung ra đều "ứng tâm đắc thủ". Giống như một người đã giác ngộ thì nói năng động tĩnh đều phát huy diệu dụng, đi đứng nằm ngồi đều biểu lộ huyền co.
Người đã ngộ được tâm pháp của võ học sẽ tự nhiên quán thông được mọi võ học trên đời. NhưTrưong Vô Kỵ hiểu được Càn khôn đại nã di tâm pháp, như Thạch Phá Thiên phá giải được đồ hình của Thái huyền kinh trên vách đá, như Lệnh Hồ Xung tâm hội được Độc Cô cửu kiếm. Gặp phái Hoa sơn thì sử dụng Hoa sơn kiếm pháp, gặp phái Kim Ô thì triển khai đao pháp Kim Ô. "Phùng Phật sát Phật, phùng Tổ sát Tổ" (gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ ), hồn nhiên du hý thần thông. Khi đã ngộ được lẽ "tâm như hư không, vô sở chướng ngại"\ thì đấy mới chính là trạng thái cực cao trong võ học. Không có gì lại không có thể trở thành võ học. Không có cảnh giới nào mà đi vào đó lại không ung dung tự tại. Lá hoa, cọng cỏ đều có thể trở thành vũ khí. Tâm ứng tại thân thành nội lực, ứng tại lòng tay thành chưởng pháp, ứng tại chân thành cước pháp, ứng tại tay thành quyền pháp, ứng tại gươm thành kiếm pháp, ứng tại đao thành đao pháp, ứng tại ngón tay thành chỉ pháp, ứng tại miệng thành "Sư tử hống". Chưởng có thể biến thành quyền, quyền hồn nhiên thành chưởng, chỉ pháp tự nhiên thành kiếm pháp đao pháp, cứ mặc nhiên tùy tâm mà vận dụng. Như cây đàn trong tay người nghệ sĩ kiệt xuất, tâm ứng vào đàn là tự thành giai điệu, như nước chảy mây bay. Tất cả đều viên dung vô ngại. Đó chính là cái mà thiền sư Lâm Tế bảo là "nhất tâm kỷ vô, tùy xứ giải thoáC. 1
1 Tâm bao la như hư không, không bị ngăn ngại
38
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
LÚC đó mọi chiêu thức đều hiển thị trong cõi tĩnh lặng mênh mông của tâm thức, không còn sự phân biệt giữa võ công và người sử dụng võ công, không còn một chút dấu vết kỹ thuật khổ luyện.
Không phải ngẫu nhiên mà Kim Dung để những người đạt đến cảnh giới "lô hỏa thuần thanh" trong võ học lại là những bậc chân tu như các đại sư Không Kiến, Phưong Chứng, nhà sư vô danh trong Tàng kinh các, đạo sĩ Trưong Tam Phong hoặc những người có tâm hồn nhiên hư tĩnh như Châu Bá Thông. Cái đầu óc thông minh và tài hoa tột đỉnh như Hoàng Dược Sư vẫn còn mang nhiều dấu vết của lý tính nên võ công không thể nào đi vào "hóa cảnh". Đến chỗ rốt ráo của "bách xích can đầu" \ thì cái diệu lý của võ học không còn liên quan đến kỹ thuật rèn luyện, cũng như Thiền tông chối bỏ mọi văn tự, ngữ ngôn.
Đọc Kim Dung hay Ngọa Long Sinh, điều hấp dẫn người đọc một cách sâu xa chính là điểm ấy. Nói như thi sĩ Bùi Giáng thì:
“Đọc truyện vũ hiệp là một trong những phép tu dưỡng kỷ ức và khơi dẫn nguồn vui ẩn mật trong mình. Đọc theo lối hồn nhiên, hoặc vừa đọc vừa suy gẫm. Chưởng lực, kiếm thế, nội kình phát ra có thể là tinh thể của tinh thần phát hiện.
Riêng đối với bạn thi sĩ, sách vũ hiệp có thể giúp bạn làm thơ lai láng một cách không ngờ. Điều đó không có chi lạ: ban sơ vũ học,văn học, thi nhạc cùng phát khởi tại một cỗi nguồn: uyên nguyên của tinh thần xuất phóng'.1 2
Và "tinh thần xuất phóng' ấy chính là đường quay về của võ học, trong phương trời lồng lộng của huyền môn tâm pháp phương Đông.
1 Thơ th i ền sư T rường Sa Cản h sầm: Bách xích can đầu tu tiến bộ, Thập phương thế giới thị toàn chân (tại chỗ chót vót của đầu trượng dài trăm xích vẫn cần bước thêm nữa, lúc đó chân tướng mười phương thế giới sẽ toàn nhiên hiển lộ)
2 Kim Kiếm điêu linh, (Bùi Giáng dịch), NXBVõ Tánh, 1967, (lời cuối sách)
39
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Bá chủ võ lâm: Bi kịch của quyền lục
Theo giáo lý đạo Phật, cái thế gian điên đảo này tồn tại và đắm chìm bởi hai chữ Ái và Dục. Hầu hết con người, khi vừa sinh ra, dường như đã mang sẵn lòng tham dục rất đỗi vô minh. Ban đầu, đó có lẽ chỉ là một phần của bản năng tồn tại. Nhưng càng về sau, thì lòng tham dục đó lại được con người dùng để khuếch trương cái bản ngã của mình, thông qua bao thứ phù phiếm của trần gian: tiền bạc, danh vọng, quyền lực, kiến thức v.v... Mỗi người mỗi cách, đều dấn thân theo một dam mê nào đó và đắm chìm trong chính dam mê ấy. Dẫu sao, điều đó cũng có một giá trị nhất định, bởi một người chết vì một dam mê nào đấy, vẫn có ý nghĩa hơn là sống một đời mờ nhạt và không có một dam mê nào. Những tay cao thủ kiêu hùng trong giang hồ đều có một điểm chung là dam mê võ công. Nhưng xét cho cùng thì hiếm có nhân vật nào dam mê võ công thuần tuý vì võ công như Châu Bá Thông hoặc Cưu Ma Trí. Đằng sau lòng ham mê đó thường là độùng cơ rửa hận phục thù, và hơn thế nữa, là tham vọng làm bá chủ võ lâm và thống nhất giang hồ, với viễn tượng tất cả các anh hùng hảo hán đều phải qui phục và cúi đầu dưới trướng!
Không chỉ trong tác phẩm Kim Dung, mà hầu như trong tất cả các tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp, điểm mấu chốt của bi kịch tranh chấp trên giang hồ vẫn là sự tranh chấp giữa một thế lực đầy tham vọng, muốn làm bá chủ võ lâm ở một bên, và bên kia là một thế lực khác, đối kháng lại cái ý tưởng cuồng điên ấy. Quì Hoa Bảo Điển, Đồ Long Bảo Đao, Tịch Tà Kiếm Phổ, Cửu Âm Chân Kinh, Cửu Dương Chân Kinh - những phương tiện để thực hiện tham vọng bá chủ võ lâm - đã trở thành đối tượng tranh chấp đẫm máu và kéo theo chúng vô vàn bi kịch. Các nhân vật võ lâm có bãn lĩnh thượng đỉnh, đều nối tiếp nhau lao vào cuộc tranh giành quyền lực. Hình ảnh của vị Võ Lâm Chí Tôn, được tất cả moiù người qui phục - một César quyền lực tối cao giữa giang hồ - vẫn luôn có một ma lực hấp dẫn kì lạ đối với những đại cao thủ.
Hơn cả một hoàng đế dùng trí và thuật để thống lĩnh thiên hạ, vị Võ lâm chí tôn ấy còn phải dựa vào bãn lĩnh thực của chính mình, đó là võ công. Cũng khác với các bố già Mafia tranh chấp quyền thống trị
40
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
trong thế giới ngầm, chủ yếu chỉ vì kinh tế - một điều được xem là ghê tởm.đối với khách giang hồ. Đạt đến ngôi vị Võ lâm chí tôn, đối với các cao thủ tuyệt đỉnh, có lẽ chỉ do một mục đích là muốn khoáng trương cái bản ngã của mình đến chỗ tận cùng: Duy Ngã Độc Tôn. Một điều chắc chắn là Kim Dung không hề có ý định làm sống lại chủ nghĩa tôn sùng Napoléon (Napoléonisme) hay làm người cổ xuý cho học thuyết siêu nhân (surhomme). Vì các cuộc tranh giành quyền lực đó, trong tác phẩm của ông, đều kết thúc trong bi kịch đổ vỡ tan hoang.
Từ chức Minh chủ Ngũ nhạc kiếm phái, để thực hiện cho được cái tham vọng cuồng điên là trở thành Võ Lâm Chí Tôn, Tả Lãnh Thiền đã không ngần ngại dùng mọi thủ đoạn, vừa mềm dẻo vừa tàn độc, để tàn sát và khống chế đồng môn. Y dùng bã danh lợi để thao túng phái Thái Sơn, dùng quỷ kế giả dạng Ma giáo để vây khốn phái Hằng Sơn, dùng bạo lực để uy hiếp phái Hành Sơn, dùng "gián điệp" là Lao Đức Nặc để theo dõi phái Hoa Sơn. Y lao tâm khổ tứ, toan tính từng kế hoạch thật chi tiết để, sau khi thống nhất Ngũ Nhạc kiếm phái, từng bước tiêu diệt Ma giáo, rồi đến hai đại môn phái là Võ Đương và Thiếu Lâm. Trong cuộc tỉ võ đoạt soái trên núi Tung Sơn, sau khi đánh bại Nhạc Linh San một cách quá dễ dàng, thì con đường dẫn đến ngôi vị chí tôn độc bá quần hùng tưởng chừng như đang mở rộng đầy
thuận lợi cho y, khi kẻ gian hùng đại chí ấy đứng chễm chệ trên Phong Thiền Đài, chờ đợi hàng trăm ngàn tiếng tung hô. Y không ngờ nỗi người cản đường y lại là nhân vật mà y xem là kẻ bại tướng dưới tay mình: Nhạc Bất Quần. Nhân vật cùng cực nham hiểm và gian xảo này, được nguỵ trá dưới ngoại hiệu "Quân tử kiếm", đã làm đảo lộn hết mọi công trình tâm huyết của Tả Lãnh Thiền. Lớp vỏ bọc nho nhã, thư sinh của gã nguỵ quân tử đã che dấu được cái dã tâm tàn độc. Con rắn nấp dưới đoá hoa đã phun nọc kịch độc, rất kịp thời và chính xác, để cướp hết thành quả của chưởng môn phái Tung Sơn. Hình ảnh Tả Lãnh Thiền bị Nhạc Bất Quần dùng nguỵ kế đâm mù mắt, cầm kiếm gào thét cuồng điên trên Phong Thiền Đài, như một nét chấm phá về kết cục bi thảm của một kẻ đại gian hùng đầy tham vọng. Tả Lãnh Thiền nào phải chết khi gục ngã trong đám loạn kiếm trong thạch động sau núi Hoa sơn, hay Nhạc Bất Quần nào phải chết dưới lưỡi kiếm bất ngờ của Nghi Lâm, mà hai nhân vật kiêu hùng và nham hiểm ấy đã chết ngay khi trận tỉ kiếm ngừng lại trên Phong Thiền Đài!
41
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Một kẻ hùng tài đại lược, do tham vọng quyền lực làm loá mắt đến mất cảnh giác, đã thất bại và trở thành phê nhân, còn kẻ chiến thắng - không phải chiến thắng bằng võ công, mà bằng thủ đoạn đê tiện - phải sợ hãi đứng nép ở một góc đài, với chiếc áo đẫm máu trong ánh trời chiều, đã cho độc giả thấy toàn bộ hình ảnh bi đát trong bức tranh tranh giành quyền lực giữa giang hồ. Chỉ do tính toán sai một nưỡc cờ tối hậu, mà bao công trình tâm huyết của Tả Lãnh Thiền phải bỏ trôi theo dòng nước, đến nỗi thân bại danh liệt. Tham vọng ngôi vị Võ lâm chí tôn được trả giá bằng đôi mắt mù lòa. Tiếng rú của y trên Phong Thiền Đài dẫu cùng cực đớn đau, và ngập tràn bi hận, nhưng sao vẫn nghe như một tiếng cười nhạo đầy mỉa mai của một Thực Tại nham nhở trước những âm mưu toan tính của con người. Còn gã Nguy quân tử kia phải trở thành một tên ái nam ái nữ, khi y đặt được bước chân lên bậc thang đầu tiên dẫn đến ngôi vị minh chủ.. Y đã bước theo vết xe đổ của Đông Phương Bất Bại, khi tự thiến mình để khổ luyện võ công tà môn tuyệt đỉnh, nhằm đạt đến ngôi vị tối cao trong làng võ. Tham vọng về quyền lực qủa có một sức quyến rũ đến kì lạ khi con người lại sẵn sàng huỷ bỏ một phần cực quí trong thân thể hay chấp nhận cái chết. Một nhân vật trong nhóm Trường Bạch tam cầm, khi bị trúng độc, lại cứ khư khư ôm cây đao Đồ Long, chấp nhận cái chết chứ không chịu đem cây đao đổi lấy thuốc giải của phái Hải Sa. Y đã bị lú lẫn bởi câu truyền ngôn trên giang hồ là ai có được cây đao Đồ Long sẽ trở thành vị Võ lâm chí tôn. Viễn tượng về quyền lực đã làm y trở nên ngu muội.
Còn gì khôi hài hơn và bất ngờ hơn, khi mà đàng sau bầu không khí uy nghiêm, như một triều đình, trên Hắc Mộc Nhai, độc giả trong tâm lý chuẩn bị đối mặt với một nhân vật kiêu hùng vô địch mà võ công đã trở thành huyền thoại là Đông Phương Bất Bại, lại gặp phải hình ảnh một gã bị hoạn không ra hình dáng mô dạng một con người. Tham vọng về quyền lực đã khiến y chiếm ngôi giáo chủ Ma giáo từ tay Nhậm Ngã Hành, và khổ luyện võ công vô địch trong Quì Hoa Bảo Điển, để cuối cùng biến thành một quái tượng ái nam ái nữ ngồi thêu khăn tay trong gian phòng sực nức mùi nước hoa, không còn thiết tha gì đến quyền lực hay sự đời nữa.! Một bức tranh châm biếm sâu sắc nhưng qúa tàn nhẫn của Kim Dung.
Khi Nhậm Ngã Hành cùng nhóm Hướng vấn Thiên, Lệnh Hồ Xung cải trang trà trộn để lên Hắc Mộc Nhai, toan tính chuyện phục
42
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
hồi cơ nghiệp, y đã rủa thầm trong bụng, lúc phải quì trong bảo điện để nghe giáo chúng xưng tụng Giáo chủ với các câu khẩu hiệu "Giáo chủ văn thánh võ đức, thiên thu trường trị, thống nhất giang hồ", vốn là một nhân vật mang bản sắc anh hùng, nên y thấy điều đó là ghê tởm, và là sự nhục mạ những nhân vật anh hùng khác. Thê nhưng sau khi cướp lại ngôi vị giáo chủ, được ngồi trong bảo điện, nhìn giáo chúng quì lạy tung hô mình bằng chính những câu khẩu hiệu rỗng tuếch mà trước đó y ghê tởm, thì y lại thấy khoan khoái và thoả mãn! Diễn biến tâm lý chỉ xảy ra trong một vài canh giờ, trước và sau khi đoạt lại ngôi giáo chủ. Quyền lực quả có một ma lực kinh khủng trong việc biến đổi một nhân vật kiêu hùng đầy bãn lĩnh như Nhậm Ngã Hành trở nên một con người tầm thường trong suy nghĩ. Tiếng cười khẩy của Lệnh Hồ Xung như một gáo nước lạnh tạt vào cái "vương triều Hắc Mộc Nhai" ấy. Tâm hồn khoáng đạt đã giúp cho gã thoát được cái Mê Cung Quyền Lực giữa chốn giang hồ.
Để khôi phục lại ngôi vị và bành trướng quyền lực, Nhậm Ngã Hành đã phải khổ luyện "Hấp tinh đại pháp", xem như đó là một phương tiện để độc bá quần hùng. Và cái giá y trả là không phải trở thành một quái tượng sinh lý như Đông Phương Bất Bại, nhưng lại trả bằng chính sinh mệnh của mình. Khi dẫn toàn thể giáo chúng khua trống giong cờ lên đỉnh Hoa Sơn, y quyết tâm cùng phe Ngũ nhạc kiếm phái mở một trận thư hùng, để bước đầu phân định ngôi vị trong chốn giang hồ, như trận Cai Hạ mang tính quyết định giữa Hạng Vũ với Lưu Bang. Tưởng chừng như mọi việc sẽ diễn biến như dự liệu để tiến dần đến với ngôi vị chí tôn đầy ma lực, thì cái rùng mình trên đỉnh Triêu Dương đã khiến y đột tử. Cơn "nhồi máu cơ tim" bất ngờ, hậu quả của việc khổ luyện "Hấp tinh đại pháp" để thoả mãn tham vọng, đã quật ngã hùng tâm của một nhân vật tuyệt đỉnh. Cái phương tiện đạt tới quyền lực đã tiềm ẩn nguy cơ huỷ diệt chính người sử dụng nó. Nguy cơ ấy chỉ có thể được hoá giải bởi võ công Phật môn là Dịch cân kinh. Chỉ có môn võ công của cửa Thiền đứng ngoài vòng cương tỏa của lợi danh mới hoá giải nỗi tham vọng cuồng điên của con người.
Nhìn ở một góc độ khác, những Nhậm Ngã Hành, Tả Lãnh Thiền V..V.. đang lặp lại các bị kịch của những Ngô Khởi, Lý Tư, Triệu Cao thời Chiến quốc, hay một Nguyễn Hữu Chỉnh thời Lê mạt, dưới một bình diện khác hơn nhưng quái gỡ hơn nhiều. Cái mị lực của quyền
43
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
uy vẫn hấp dẫn con người muôn thuở, và lắm khi lôi cuốn con người vào những hiểm họa, mà hào thượng cửu trong quẻ Kiền của kinh Dịch đã nhắc nhở tự mấy ngàn năm: "Kháng long hữu hối" (Con rồng bay lên quá cao sẽ có sự hối hận ).
Vãn giác văn chương chân tiểu kĩ Tảo tri phú quí hữu nguy cơ.
(về già mới hiểu rằng văn chương chỉ là trò tiểu xảo, nhưng đã sớm biết trong phú quí vẫn tiềm ẩn nguy cơ ).
Câu thơ trên của Tô Đông Pha có thể tạm dùng để "tổng kếc được chăng, những bi kịch của quyền lực trong nhiều tác phẩm của Kim Dung?
44
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Bi kịch Tạ Tốn
Hãy tưởng tượng cảnh trời chiều trên Băng hoả đảo, một hòn đảo xa xôi hoang vắng vùng cực Bắc, giữa những làn gió lạnh cắt da, một trung niên thân hình khôi vĩ, râu tóc vàng rực, mặc áo khoác da thú, đôi mắt trắng dã mù loà, tay cầm thanh đại đao lấp lánh trong ánh trời chiều, đứng cô liêu trầm mặc như một nhà sư nhập định, rồi bỗng nhiên cất lên tiếng rú làm kinh động cả bầu thái hư lạnh buốt. Không phải là tiếng hú giác ngộ Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư của một Không Lộ thiền sư1, mà là tiếng rú cực kì đau thương và bi phẫn của con mãnh sư bị thương: Kim mao Sư vưong Tạ Tốn.
Một tuyệt đại cao thủ với kiến văn vô cùng uyên bác, một con người văn võ kiêm toàn, Phó giáo chủ của Minh giáo, một tài năng hãn hữu trong võ lâm, chỉ vì một phút nông nỗi hồ đồ, bị biến thành vật hiến tế trong trò chơi tai ác của Định Mệnh. Ông đã trải qua cảnh đoạn trường trong cuộc sống: vợ bị hãm hiếp rồi bức tử, đứa con trai yêu duy nhất bị giết chết. Oáí ăm thay, kẻ gây ra thảm kịch cho gia đình Tạ Tốn không ai khác mà chính là vị ân sư mà ông đã hàm nặng ơn sâu và coi như cha đẻ: /-/<5/7 nguyên Phích lịch thủ Thành Khôn. Gây án xong, Thành Khôn tuyệt tích giang hồ. Từ đó, để tìm ra tung tích Thành Khôn, Tạ Tốn lao vào những cuộc đồ sát phi lý điên cuồng. Mỗi khi giết người xong, ông lại đề tên Thành Khôn với hi vọng ngây thơ là Thành Khôn sẽ xuất đầu lộ diện để cùng mình tương kiến. Trong khi đó, Thành Khôn lại âm thầm nấp trong bóng tối và tiếp tục gieo rắc ngộ nhận thương đau cho đồ đệ của mình, tiếp tục đẩy Tạ Tốn vào những cuộc sát nhân vô cớ. Và tội lỗi ngày càng kéo Tạ Tốn lún sâu vào tội lỗi. Một nỗi đau sâu sắc khác của Tạ Tốn là cái chết của Không Kiến đại sư, một cao tăng chùa Thiếu Lâm, người tự nguyện đứng ra hoà giải mối cừu hận giữa hai thầy trò và hi vọng cứu vãn sát kiếp cho võ lâm. Hình ảnh Không Kiến đại sư, dù chỉ xuất hiện rất ngắn và chỉ qua lời kể của Tạ Tốn, đã để lại ấn tượng vô cùng cảm động trong lòng người đọc: đem tính mạng mình ra để điều hoà mối
1 Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư (Có khi lên thẳng đỉnh núi cô liêu Cất tiếng hú dài làm lạnh buốt cả bầu trời)
45
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
xung đột bất khả vãn hồi bằng tình yêu bao la và lòng dung nhẫn mênh mông. Một hình ảnh xả thân hi sinh phi thường với tinh thần vô ngã tuyệt đối mà ta thỉnh thoảng chỉ thấy trong nền văn hoá phưong Đông. Thủ đoạn của Thành Khôn và cái mẹo vặt của Tạ Tốn đã đẩy vị thần tăng chùa Thiếu Lâm vào chổ chết. Môn Kim cưong thần công hộ thân của Không Kiến chỉ bảo vệ được cho vị thần tăng đáng kính kia trước những ngọn Thất Thương quyền cực kì tàn độc nhưng lại không bảo vệ được ông trước mưu mô âm hiểm của con người!
Từ đó, cả hai phe hắc bạch đều xem Tạ Tốn là kẻ tử thù, khiến ông không còn đất dung thân dù giang hồ rộng bao la. Cái lý do tồn tại cuả Tạ Tốn trên cõi đời này, cái raison d' être của ông giờ đây chỉ còn là sự hờn căm và rửa hận. Tạ Tốn có cái lý của mình trong những cơn đồ sát vô nghĩa và Thành Khôn cũng có cái lý của chính ông: trả thù cho một mối tình tuyệt vọng. Cõi giang hồ đầy dẫy ân oán thị phi đã đẩy dần hai thầy trò vào chỗ tận cùng chốn diêu mang phi lý cõi tồn sinh.
Rồi vì để chiêm nghiệm cho ra cái điều huyền mật trong thanh bảo đao Đồ long nhằm tìm ra một môn võ công lợi hại để giết được kẻ thù là ân sư Thành Khôn, Tạ Tốn đã ép buộc vợ chồng Trương Thuý Sơn cùng mình lưu lạc trên Băng hoả đảo. Do Tạ Tốn tâm trí thất thường nên đã giao đấu với Trương Thuý Sơn. Và Hân Tố Tố đã ném kim châm làm mù mắt Tạ Tốn để hổ trợ chồng, vốn đã mang bao tâm sự u uất khổ đau, giờ đây sự cuồng điên trong tâm hồn Tạ Tốn lại lên đến cực điểm. Vì võ công ông quá cao siêu nên vợ chồng Thuý Sơn, dù là hai tay cao thủ, cũng phải luôn luôn trốn tránh Tạ Tốn trên hoang đảo chỉ có ba người.
Khi Hân Tố Tố chuẩn bị lâm bồn, Thuý Sơn, do lo sợ, phải đào sẵn một cái hố trước hang động đang trú ẩn để đề phòng Tạ Tốn. Qủa nhiên ông đã tìm đến và rơi xuống hố. Khi nhảy ra được khỏi hố với thanh kiếm do Thuý Sơn đâm sâu trên trán, Tạ Tốn giận dữ tột độ, toan xông vào hang để giết luôn cả hai vợ chồng Thuý Sơn thì đúng lúc Vô Kị cất tiếng khóc chào đời. Tiếng khóc hài nhi giữa đêm khuya thanh vắng như một tiếng chuông cảnh tỉnh bỗng nhiên đánh thức lương tri của con hùng sư cuồng điên trong cơn tuý sát: dĩ vãng lại hiện về với hình ảnh đứa con trai yêu bị thảm tử. Một chi tiết dù rất nhỏ nhưng làm cho ta vô cùng cảm động. Nếu không thê thì ta sẽ vì đời mà giận dỗi ông Kim Dung biết mấy! Tính nhân bản, và chổ cao
46
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
diệu của ngòi bút Kim Dung là ở điểm đó. Một tâm hồn hời hạt với bút lực tầm thường sẽ không bao giờ thể hiện nỗi những cái u uẩn khuất khúc vô cùng phức tạp trong tâm lý con người1. Hình ảnh hài nhi, trong truyền thống Viễn đông, vẫn thường tượng trưng cho đức Sinh của Tạo hoá. Chỉ có những tác giả có cái nhìn sâu thẳm vào bản chất con người, những "đôi mắt trông thấu sáu cõi, những tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời"1 2 như Tô Như Tử mới có được bút lực tinh tê dường kia! Có khi chỉ vì một sự cố rất nhỏ vô tình trong đời mà cuộc đời ta lại chuyển sang hướng khác. Đồ tể buông đao là thành Phật. Đọc đến đây ta chợt hiểu vì sao tác phẩm Kim Dung lại có sức cuốn hút độc giả đến thê trong bao năm qua. Hãy gạt bỏ đi những môn võ công không thực, hãy gạt bỏ đi những chiêu thức hoang đường, cái cốt lõi trong tác phẩm Kim Dung hiện ra vẫn là hình ảnh con người phù du tử diệt phải một mình khoắc khoải đối diện với bao ân oán thị phi rối răm chằng chịt giữa cõi đời phi lý mênh mông! Con người, ngay cả bậc anh hùng, nhiều khi vẫn là trò chơi trong bàn tay tai quái của Định Mệnh mà mọi nỗ lực vượt qua đều dường như vấp phải một bức tường bất khả tư nghi! Đôi tình nhân hạnh phúc Trương Thuý Sơn và Hân Tố Tố phải cùng nhau tự vẫn ngay trước mặt bao vị tôn trưởng để thành tựu mộng đầu oan nghiệt và con hùng sư khổ đau Tạ Tốn lại phải tiếp tục sống để rửa sạch mối hờn căm.
Trên Băng hoả đảo, Tạ Tốn nhận Vô Kị làm nghĩa tử và truyền thụ toàn bộ võ công siêu việt, với hoài vọng đứa con nuôi thông minh và đôn hậu kia sẽ thành toàn được những gì mà ông còn để dỡ dang trong tâm nguyện. Người anh hùng trong một phút nông nỗi hồ đồ đã để lại mối hận ngàn năm! Anh hùng di hận kỉ thiên niên (Thơ Nguyễn Trãi ). Trải qua bao gian khó, Tạ Tốn lại một mình tìm về được Trung thổ để tiếp tục tầm thù. Cuối cùng, ông cũng hội diện được với cừu nhân dưới lốt nhà sư Viên Chân trên đỉnh Thiếu Lâm và rửa được mối hận bình sinh. Thù xưa đã trả. Ân oán đã tan. Lẽ ra Tạ Tốn phải thấy lòng ung dung thanh thản nhưng giờ đây ông lại đối diện với những hang hố đen ngòm của cuộc tồn sinh: mọi sự việc trên đời bỗng trở
1 Tên sát nhân giết mướn với đôi tay đầy máu như Santiago (?) trong phim Một mình chống lại Mafia lại sẵn sàng chịu chết vì một cháu bé gái xa lạ mà y bắt làm con tin để bảo vệ cho chính tính mạng của mình trên đường chạy trốn sự truy lùng của cảnh sát! Một chi tiết mang tính nhân bản cao độ làm người xem vô cùng cảm động
2 Nhãn phù lục cực, tâm quán thiên thu (Lời Mộng Liên đường chủ nhân ca ngợi Nguyễn Du)
47
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
nên hư huyền trống rỗng. Trong cuộc đấu tranh tầm thù dài dằng dặc đó, kẻ thất bại đã bị chết, nhưng kẻ chiến thắng lại rơi vào sự cô đơn. Và chính trong nỗi cô đơn ấy, cái tận cùng phi lý của nhân gian lại hiện nguyên hình: Thị phi thành bại chuyển đầu không. Chuyện đúng sai hay thành bại ở trên đời, khi đã trải qua rồi và quay đầu nhìn lại, mới hay chỉ là hư không trống rỗng.
Không biết tự bao giờ, ở Viễn đông, con người thường đem bao nhiêu chuyện thương tâm trong suốt bình sinh hướng về cửa Không để mong nhờ Phật pháp tiêu giải 1, và những người anh hùng khi đến đường cùng lại thường xuống tóc đi tu. Anh hùng mạt lộ bán vi tăng1 2. Tạ Tốn dù không là anh hùng mạt lộ, nhưng cơ duyên đủ chín mùi để ông nhận chân ra được những tấn tuồng hư huyễn của nhân gian, nên ông tự phê bỏ võ công, xin qui y cửa Phật và tự nguyện chịu đựng mọi thứ đờm rãi nhơ bẩn khạc nhổ lên người và mọi sựthoá mạ của những người có người thân bị ông giết chết. Ta tin rằng trong suốt bình sinh, có lẽ chưa bao giờ tâm hồn Tạ Tốn lại thấy thanh thản bằng lúc quì gối để chịu đựng nỗi nhục hình ghê gớm đó, nỗi nhục hình mà bất kì một người học võ nào cũng đều thấy đau đớn hơn là cái chết. "Tạ Tốn hay đống phân bò cũng chẳng có gì khác nhauĩ". Câu nói cuối cùng đầy minh triết của con hùng sư một thời chọc trời khuấy nước, làm khuynh đảo cả giang hồ, đã khép lại tấn thảm kịch của một đại cao thủ kiêu hùng nhưng, trong tác phẩm Kim Dung, lại tiếp tục mở ra những trang bi kịch khác của võ lâm.
1 Bình sinh kỉ hứa thương tâm sự. Bất hướng Không môn hà xứ tiêu (Thơ Vương Duy)
2 Thơ cổ: Sư nữ đa tình nguyên thị Phật, anh hùng mạt lộ bán vi tăng (Sư nữ đa tình ấy chính là đức Phật, còn kẻ anh hùng khi mạt lộ thì một nữa xuống tóc đi tu!)
48
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Tiêu Phong: người anh hùng trong Mê cung
Đinh mênh
i •
Một chiêu cực kì cương mãnh trong Giáng Long thập bát chưởng tung ra, và A Châu - trong lốt cải trang Đoàn Chính Thuần - đã ngã gục dưới ánh sấm chớp loè và cơn mưa đêm tầm tã. Kim Dung đã bố trí cái chết oan uổng của cô tỳ tử thông minh A Châu trong một bối cảnh vô cùng thê lương và bi đát. Tiêu Phong lặng người ôm xác người yêu do mình lỡ ra tay ngộ sát. Cùng với cái chết của A Châu, một Tiêu Phong chỉ biết rượu và võ công đã chết, sự thanh thản tâm hồn đã cáo chung và từ đây kẻ anh hùng kiệt xuất của Kim Dung bắt đầu cung bậc của đoạn trường khổ luỵ.
Trong tất cả các nhân vật của Kim Dung, có lẽ chỉ có Tiêu Phong là nhân vật gây ấn tượng sâu đậm nhất về thân phận bi tráng của người anh hùng trong mê cung của định mệnh. Số phận của ông thật là nghiệt ngã. Thoạt tiên ông ngỡ mình là người Hán, và với tư cách là Bang chủ Cái bang, ông đã vì xứ sở Hán mà phục vụ. vốn bản chất sôi nổi anh hùng, cả đời ông chỉ giao du cùng hảo hán khắp giang hồ. Ông không hề biết đến tình yêu, chưa bao giờ biết rung động trước một khách má hồng nào, dẫu người đó có thuộc nòi thiên hương quốc sắc. Ông chỉ dam mê rượu cùng võ công. Và chính cái đó đã dẫn đến thảm kịch của đời ông, một thảm kịch cực kì bi tráng.
Mà cũng đúng thôi. Một trang hán tử vô cùng kiêu dũng, là niềm ước mơ của biết bao nhiêu khách má hồng thế mà ông cứ vô tình đi giữa cõi đời, cứ mãi mãi ví dầu trần gian có người quốc sắc, thì ta cũng chỉ dừng chân vuốt mặt rồi đi1, cứ hờ hững với tấm lòng say đắm của người ta, ông xem trọng rượu và võ công hơn nhan sắc, trách sao người ta không hờn dỗi. Từ hờn dỗi biến thành hờn căm. Rồi từ hờn căm đi đến hận thù và tìm cách trả thù cũng không xa. Định Mệnh đã muốn thay mặt cho khách má hồng trả thù anh chàng Narcissus 1 2
1 Hai câu thơ này tôi nghe từ lâu rồi, do một người đọc trong tiệc rượu mà không nhớ của ai
2 Theo thần thoại Hy Lạp, thì Narcissus là con trai của thần sông Cephissus. Do anh rất mực xinh trai, nên được vô số các cô gái mê say, nhưng anh ta đều lạnh lùng chối từ tất cả, trong đó có cả nữ thủy thần Echo. Để trừng phạt Narcissus, nữ thần trừng phạt Nemesis đã khiến cho Narcissus chỉ yêu chính gương mặt mình, soi trong làn nước! Anh ta say đắm hình ảnh của mình
49
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
phương Đông. Và người được Định Mệnh chọn ra để làm công việc ấy lại là Mã Phu nhân, vợ của Phó Bang chủ Cái bang. Một phu nhân dung nhan tuyệt đại, luôn tự hào về sắc đẹp của mình, đã khiến biết bao nhiêu khách anh hùng điên đảo thần hồn chỉ bằng một khoé mắt thu ba hoặc một nụ cười hàm tiếu. Trong một buôỉ tiệc lớn của Cái bang, khi các khách anh hùng dự tiệc đều ngây ngất trước sắc đẹp của Mã phu nhân, thì Tiêu Phong chỉ chào nàng chiếu lệ và say sưa uống rượu với quần hào. Tiêu Phong vô tình xem phu nhân như không có mặt ở trên đời! Vì tình yêu vô vọng, và vì tự ái, phu nhân rắp tâm báo thù. Báo thù bởi vì người mà mình thầm yêu lại không quan tâm đến mình như bao người khác. Tìm mọi cách để báo thù người mình yêu, khiến cho họ thân bại danh liệt dù điều đó làm cho trái tim mình thêm tan nát! Tâm lý người đàn bà khi yêu, khi ghen thật cực kì mâu thuẫn và phức tạp. Có lẽ chỉ có thần thoại Hy lạp và các bi kịch của Shakespeare, Racine mới sánh kịp ông Kim Dung về lãnh vực này.
Tiêu Phong đã trở thành biểu tượng của hào khí và của võ công, khiến tất cả các tay cao thủ của cả hai phái chính tà đều ngưỡng mộ. Thế mà đớn đau thay, khi thân thế ông bị phát hiện, dù còn đang là nghi án, thì số đông quần hào lại nhanh chóng quay lưng và phủ nhận tất cả những gì tốt đẹp của khách anh hùng. Người anh hùng của Kim Dung từ nạn nhân của một trái tim hờn ghen uất hận tiếp tục biến thành nạn nhân của một mưu đồ chính trị: đó là âm mưu lật đổ ngôi vị Bang chủ của ông. Tâm lý con người cổ kim xưa nay đều luôn có một điều quỉ dị kì lạ, ấy là khi chứng kiến sự sụp đổ của một thần tượng hay một người đang được tôn vinh thì trong thâm tâm họ lại cảm thấy một niềm hoan hỉ và thoả mãn ngấm ngầm! Sau đó, Tiêu Phong bị xua đuổi khỏi cả hai phái chính tà.
Trong tâm trạng cực kì hoang mang đau đớn, ông quyết tâm đi tìm cho ra nguồn gốc và thân thê của mình. Trên đường điều tra, ông lại tiếp tục bị ngộ nhận là giết cha mẹ nuôi Kiều lão, giết ân sư Huyền Khổ và chịu bao nỗi oan uổng khác. Khi ôm A Châu đến Tụ Hiền trang để cầu Tiết Thần Y chữa bệnh, ông mới biết quần hào đang tụ họp nơi đây để tìm cách đối phó với ông, một người giờ đây bị xem như là một tên cực gian ác, một kẻ thù chung của võ lâm! Một trong
đến độ ngồi mãi bên dòng suối, và không thể bỏ đi đâu được. Cuối cùng anh ta gục chết, và biến thành một loài hoa đẹp.
50
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
những bi kịch của cuộc đời là nhiều khi vô tình tạo ra ngộ nhận và đẩy con người vào chỗ ngờ vực, hận thù. Lắm lúc con người muốn làm việc thiện mà không được và muốn tránh việc ác cũng không xong. Thôi được, các ngươi trước kia đã từng là bạn hữu của ta, có người còn mang ơn ta nữa, giờ đây Định Mệnh đã bôi mặt ta lem luốc không cho bạn bè võ lâm đồng đạo nhận ra ta nữa, lời ta nói không còn ai nghe ra nữa, đính chính không xong, biện bạch không được thì hào khí ta trỗi dậy trong huyết quản, ta sẽ cùng tất cả quần hào các ngươi uống cạn một chén rượu tuyệt tình rồi quyết tâm cùng nhau một phen sống mái để tỏ rõ mặt hùng anh! Trong tất cả tác phẩm của Kim Dung, trận huyết chiến đơn thân độc đấu giữa Tiêu Phong với quần hùng tại Tụ hiền trang có lẽ trang sử bi tráng và hào hùng nhất trong lịch sử võ lâm. Trong Ỷ Thiên Đồ Long ký, khi Trương Vô Kị xuất hiện ngẫu nhiên trên Quang Minh đỉnh để một mình đánh bại tất cả quần hùng, cứu Minh giáo khỏi thảm hoạ bị tận diệt, thì chàng thiếu niên anh hùng đó dựa vào môn Càn khôn đại nã di siêu tuyệt và tấm lòng đôn hậu để hoà giải tình thế nguy cấp. Lúc đó, Vô Kỵ chỉ là một chàng thiếu niên hoàn toàn xa lạ với cả hai phe, người bị thua lại được chỉ điểm thêm võ công, ai cũng hân hoan cảm tạ. Phe chính giáo do phái Võ đang đại diện không muốn lợi dụng thời cơ để tận sát phe Minh giáo, họ cùng quần hùng rời Quang Minh đỉnh ra đi trong tâm trạng hân hoan với lá cờ sáng ngời chính nghiã: Công đạo võ lâm vẫn được duy trì. Nó khác hẳn cuộc huyết chiến của Tiêu Phong nơi Tụ hiền trang. Đệ huynh đồng đạo không nhìn nhận ra nhau và gây nên thảm cảnh tương tàn. Bi kịch nối tiếp theo bi kịch, ngộ nhận chất chồng lên ngộ nhận. Máu càng đổ, hận cừu càng kết chặt, oan khiên càng nặng nề thêm. Cứ điên cuồng cùng nhau đem hết sức lực bình sinh quyết đấu, đem tính mạng phiêu bồng ra chơi trò chơi kì tuyệt của Định Mệnh, cứ tự cuốn trói nhau vào mớ bòng bong rối mù của ân oán thị phi cực kì phi lý để rồi mai đây, khi tỉnh ngộ và dừng tay lại, nhìn ra nhau chân dung của đệ của huynh, thì buổi trùng lai cuối cùng nơi Nhạn môn quan đã nhuộm quá nhiều sắc màu ngậm ngùi cay đắng!
Rồi cuộc truy tìm thân thế đưa đẩy Tiêu Phong đến chỗ ngộ sát người yêu duy nhất trong đời là A Châu khi hai người đã ước nguyện sẽ từ giã giang hồ, cùng tìm về Nhạn môn quan để sống cuộc sống thanh bình chăn dê trên đồng cỏ. Khi hội diện với Đoàn Chính Thuần nơi rừng trúc, Tiêu Phong hỏi về thân thế của một hài nhi là mình thì
51
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Đoàn Chính Thuần lại ngỡ là hỏi về một đứa con roi ngày trước của ông. Cuộc đối thoại vô tình càng làm tăng thêm ngộ nhận. Lời lạc điệu, tiếng lạc âm. Mọi mối cảm thông đều bị cắt đứt. Định Mệnh đã giăng một màn lưới oan nghiệt để không ai còn nhận ra nhau! Đối diện nhau mà cứ như lạc trong cõi sương mù. A Châu vì chữ Hiếu đã tự nguyện đem thân mình ra hoá giải mối oan cừu không có thực! Hiếu Tinh đôi đường không trọn thì chỉ còn có cái chết mà thôi. Người con gái thông minh, đáng yêu mang nặng tâm hồn phương Đông đó đã tìm cách điều hoà những mâu thuẫn trong đời bằng một giải pháp bi thương! Tình yêu chân chính đầu đời luôn mở ra những chân trời vô biên và tuyệt đích khiến cho con người trở nên cao thượng. Và để đạt đến chân trời đó, đôi khi con người sẵn sàng khước từ cả đối tượng thương yêu và hân hoan chấp nhận hi sinh. Trong dang dở, trong đau khổ, thậm chí trong cái chết, lòng người vẫn tự hào vì đã sống xứng đáng với tình yêu đó. Cái chết oan nghiệt của A Châu đã làm sáng tỏ những điều ngộ nhận nhưng tất cả đã quá muộn màng!
Mọi người lần lượt bỏ đi chỉ còn một mình Tiêu Phong ôm xác A Châu kêu gào giữa cảnh đồng không! Võ công quán thế, hào khí ngất trời. Tất cả những cái đó nào có nghĩa gì trước cái xác lạnh giá của người yêu? Bi kịch ngàn năm của con người vẫn hiện ra đấy trong các kiệt tác kim cổ Đông Tây. Đấng Tối cao vẫn cứ muôn đời lặng thinh trước những tiếng kêu trầm thống tuyệt vọng của con người. Trong Le Malentendu của A. Camus, người câm đã bỏ đi khi người mẹ ra sông tự vẫn vì do ngộ nhận lỡ giết con trai, bỏ lại một mình Martha bất lực đang kêu gào, đối diện với sa mạc nhân gian! Tiêu Phong không có được diễm phúc như Trương Thuý Sơn là cùng chết với Hân Tô Tô để nối kết những gì còn để dang dở trong cuộc sống (Ỷ Thiên Đồ Long kí), mà chàng buộc phải sống để truy tìm thân thế, trong khi chỉ muốn được chết để tạ tội với A Châu!
Cuối cùng, Tiêu Phong phát hiện phụ thân là Tiêu Viễn Sơn vẫn còn sống. Ông cũng chính là ân nhân đã cứu thoát Tiêu Phong ra khỏi Tụ hiền trang trong cơn nguy khốn. Và đau đớn thay, chính Tiêu Viễn Sơn đã tự tay đẩy con mình vào những cảnh ngộ oan uổng trớ trêu. Ông đã tự tay giết chết những nạn nhân rồi đổ hoạ cho con trai! Hai cha con nhận diện ra nhau ở giai đoạn cay đắng dị thường trong Mê Cung Định Mệnh. Cùng với bi kịch thầy trò Thành Khôn- Tạ Tốn (Ỷ Thiên Đồ Long kí), Kim Dung đã dày công bài thiết thêm bi kịch cha
52
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
con Tiêu Viễn Sơn - Tiêu Phong như một ngẫu đề song đôi về những oan nghiệt tồn sinh.
Cuộc gặp gỡ hai phái chính tà trên đỉnh Thiếu Lâm tưởng chừng rơi vào chỗ bất khả vãn hồi thì nhà sư quét rác vô danh trong Tàng Kinh các xuất hiện, dùng võ công siêu tuyệt và Phật pháp vô biên để hoá giải mối oan cừu giữa Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác, đồng thời khai ngộ cho hai nhân vật kiêu hùng đó khiến họ tỉnh ngộ và qui y cửa Phật. Một lần nữa Kim Dung lại nhờ đến Phật pháp để hoá giải oan cừu. Cõi đạo mênh mông Đông phương luôn có chổ để con người hồi tâm quay về tìm cách hoá giải mọi ân oán thị phi khi chúng bị đẩy đến chổ tận cùng và mọi biện pháp giải quyết tưởng chừng như bế tắc: Sơn cùng thuỷ phúc nghi vô lộ. Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn \ Trong khi xưa nay quần hùng đều lên án và nguyền rủa Tiêu Phong thì nhà sư vô danh dị thường đó lại hết lời ca tụng! Sách ông Kim Dung thường âm thầm mở ra những khoảng vắng lặng để ta có dịp suy gẫm thêm về Đức Lý Uyên Nguyên
Tiêu Viễn Sơn đã xuất gia, nhưng Tiêu Phong lại phải âm thầm sống để chăm lo cho A Tử theo lời trăn trối của A Châu, dù từ sau cái chết của người yêu, tâm hồn ông bắt đầu đối diện với sự trống vắng hãi hùng. Tiếng sáo chăn dê mơ hồ trên đồng cỏ Nhạn môn quan vẫn vọng về như một sự đọa đày của kỉ niệm. Ông Kim Dung càng đẩy cái đoạn trường của tình yêu lên cao độ khi để cho nhân vật A Tử yêu người anh rễ Tiêu Phong, bên cạnh đó lại bài thiết thêm mối thảm kịch của Du Thản Chi trong mối tình si dại cuồng điên đối với A Tử! Suốt quãng đời còn lại, mỗi lần khuyên giải A Tử, Tiêu Phong rất ít khi nhắc đến A Châu, nhưng mỗi khi đọc, ta vẫn hình dung được tâm hồn ông và cảm thấy ngậm ngùi khôn tả.
Ở đoạn cuối tác phẩm, để cứu quần hùng bị kẹt tại Nhạn môn quan và buộc vua Liêu lui binh không được xâm lược Trung Nguyên, Tiêu Phong đã dùng võ lực áp chê nhà vua bẻ tên thề trước ba quân, rồi ông dùng tên đâm vào ngực tự vẫn để giữ trọn chữ trung thì ta hiểu đó chỉ là cái cớ. Tiêu Phong đã chết thực sự từ sau cái chết của A Châu! A Tử móc mắt ném trả lại cho Du Thản Chi rồi ôm xác Tiêu Phong rơi vào vực thẳm để Du Thản Chi mù loà kêu gào tên người yêu 1
1 Đến chỗ sơn cùng thủy tận, cứ ngỡ như không còn lối nữa, thì lại thấy thấp thoáng có một thôn xóm, trong những rặng liễu mờ và những cánh hoa sáng - thơ Lục Du
53
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
giữa cảnh trời chiều quan ải. Trong tất cả các tác phẩm Kim Dung có lẽ Thiên long bát bộ là bộ sách hay nhất và có lẽ chỉ có Thiên long bát bộ mới cái chung cục đau thương nhường kia. Và dường như Định Mệnh luôn luôn đem bi kịch vây quanh cuộc sống của những kẻ anh hùng?
54
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
A Châu: nước mắt oan cừu
Một người bảo tôi: nói về Tiêu Phong mà chỉ nói dăm ba trang thì chẳng nói được gì. Vấn đề thân phận con người, vấn đề thị phi
thiện ác, vấn đề nghiệt oan của Định Mệnh, vấn đề quốc gia.... chung quanh nhân vật kiêu dũng đó, dẫu có viết đến vài trăm trang cũng
chưa đủ. Tôi bảo: "Phải". Nhưng có những điều, lắm khi viết một ngàn trang vẫn thiếu, mà một chữ lại thừa! Muốn tả trăng thì phải tả mây. Đó là cách mượn mây để mà nẩy trăng của Kim Thánh Thán. Nên muốn nói đến Tiêu Phong thì phải gợi lại hình ảnh của A Châu.
Những nhân vật nữ là người yêu của các nhân vật chính trong tác phẩm Kim Dung, dẫu chính hay tà, luôn có thân phận cao sang. Đó là Nhậm Doanh Doanh - Thánh Cô của Ma Giáo, là Triệu Minh - quận chúa Mông Cổ, là Hoàng Dung - con gái của Đào Hoa đảo chủ, là Nhạc Linh San - ái nữ của chưởng môn phái Hoa Sơn, là Mộng Cô - công chúa nước Tây Hạ, là Vương Ngữ Yên - kiều nữ của Mạn đà sơn trang.Chỉ riêng A Châu - người con gái dìu dắt sinh mệnh và cuộc đời của một nhân vật kiêu dũng và anh hùng là Tiêu Phong - lại một tỳ tử mang thân phận thấp hèn: là đứa con rơi của một hoàng thân nước Đại Lý, nên trở thành một cô gái mồ côi lênh đênh lưu lạc, cha mẹ phiêu tán, phải nương náu nơi nhà Mộ Dung với tư cách người hầu. Mà trong số các nhân vật chính của Kim Dung, Tiêu Phong lại trỗi vượt hơn hẳn các nhân vật khác về phong độ kiêu hùng, cho nên khi Kim Dung để A Châu dìu dắt sinh mệnh của Tiêu Phong thì ta càng hiểu rằng cái phẩm chất ẩn tàng nơi A Châu là cực kỳ cao quí.
Khách anh hùng xông pha giữa điệp trùng gươm giáo, sẵn sàng coi cái chết như một cõi đi về, nhưng một khi đối diện với những
"nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe" lại thường nhận chân ra nỗi hoang lương thê thiết, và cái vô nghĩa của cuộc đời. Và họ cần đến những nữ lang để tìm chút hơi ấm của đời thường, một khi phải đối diện với cõi trống rỗng hư vô. Ngay cả với Tiêu Phong - là một nhân vật gần như sống trong tự do tuyệt đối. (xin hiểu chữ tuyệt đối theo nghĩa t ương đối của trần gian!!!!). Rượu và võ công đã chắp cho ông đôi cánh chim bằng để bay bổng tuyệt vời trong khoảng trời bao la tự tại, lướt trên những lợi danh tủn mủn giữa võ lâm. Thử hỏi chức vị Bang chủ Cái Bang nào có nghĩa gì? Nếu ông có quyến luyến đi nữa, thì cũng chỉ vì
55
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
sự an nguy của đệ huynh trong bang hội mà thôi. Ta có cảm tưởng như người anh hùng ấy thong dong đến giữa cõi đời, rồi sẽ ra đi một cách nhẹ nhàng không vướng bận. Không như Lệnh Hồ Xung luôn khoái hoạt bỡn cợt, Tiêu Phong lại lẫm lẫm một khí độ kiêu hùng. Con người ấy đến giữa đời như ngọn lửa bừng cháy, để rồi sẽ ra đi như một tia chớp, lưu lại giữa trần gian một hình bóng uy nguy. Nhưng rồi chính A Châu, hay đúng hơn, chính cái chết của A Châu là sợi dây nối Tiêu Phong vào cõi trần gian đầy hệ lụy. Cái giây phút cực cùng bi đát của Thiên Long Bát Bộ là lúc A Châu, như một con thiên nga trúng đạn, gục ngã dưới phát chưởng oan nghiệt của Tiêu Phong. Đường bay tới một khoảng trời xanh không còn tranh chấp hận thù, không còn ân oán thị phi, khoảng trời chỉ có đàn cừu chạy trên thảo nguyên trong tiếng sáo mục đồng dìu dặt, đường bay tưởng chừng như vô cùng bình dị đó đã vĩnh viễn khép lại với con chim thiên nga thông minh và hiền dịu A Châu. Nàng đã ngã xuống giữa những giọt nước mắt oan cừu, phủ thêm bi thương lên cõi thế.
Ồ lỵ biệt tơi bời bờ lảo đảo Em ra đi - Đời bưng mặt khóc oà (Chiêm bao - Bùi Giáng)
Em đã ra đi vĩnh viễn. A Châu của Kim Dung đã ra đi vĩnh viễn dưới bàn tay Tiêu Phong. Như Desdemona của Shakespeare đã ra đi vĩnh viễn dưới bàn tay Othello. Một kẻ vô tình, một người cố ý. Tất cả thảm họa đó đều phát sinh từ ngộ nhận. Othello ngộ nhận bởi gã lago cực kỷ nham hiểm, Tiêu Phong ngộ nhận bởi người đàn bà ghen tuông là Mã phu nhân. Kiếp người đã quá đỗi nặng nề rồi, thế sao đời cứ luôn đem bi kịch chất chồng lên thêm nữa? Phải chăng để nhắc nhở con người nhìn lại chân tướng của trần gian? Ta bước vào đời với trái tim nặng trĩu ước mơ, để rồi ra đi với một tâm hồn hoang phế. Tất cả đều bấp bênh phù động, cõi vô thường tìm đâu được chốn bình yên. Thoạt nhìn trần gian đầy những cảnh "Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng' (Kiều 1603-1604), để rồi ngày trùng phùng chỉ đối diện với "Bước vào chốn cũ lầu thơ/ Tro than một đống nắng mưa bốn tường' (Kiều.1671-1672). Cả cõi đời đều bưng mặt khóc òa. Tiêu Phong đã khóc, chúng ta đã khóc. Và còn bao nhiêu người sẽ khóc nữa, trước những bi kịch trớ trêu của ngộ nhận giữa dâu bể cuộc đời? Mộng hồn nàng có về vương vấn nơi Nhạn môn
56
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
quan? Còn không một bận quay về, Nhạn môn quan khóc trăng thề vàng gieo . Còn đâu nữa những đàn cừu tung tăng trên thảo nguyên mênh mông nơi quan ngoại? Còn đâu nữa lời hẹn thề quay lại Nhạn môn quan?
Ta muốn ngậm ngùi thốt lên những lời thiết tha cùng nhà thơ Bùi Giáng: "Và nước dưới cầu chảy mãiì Để huê trôi, rêu nhạt, đá mòn. Thế là người có thể gục đầu xuống khóc, và tự hỏi:ở phưong trời nào xa vắng, có bến bờ nào vĩnh viễn hay khôngì" Đó là những lời Bùi Giáng viết về cõi đời dâu bể, mà sao nghe ra như những lời nức nở của A Châu. Trong cái đêm oan nghiệt đó, dưới lốt hoá trang Đoàn Chính Thuần, nàng đến gặp gỡ Tiêu Phong, có nghĩa là chịu im lặng để đi tìm cái chết. Vì chữ hiếu, nàng đành chấp nhận chết dưới bàn tay người yêu dấu, giữa lúc mộng đời đang xanh thắm, và cuộc tình đang chất ngất nồng say. Tôi hình dung đêm hôm ấy, có lẽ nàng khóc nhiều ghê lắm. Vì hân hoan lẫn vì cay đắng. Nơi phương trời xa vắng, liệu có bến bờ nào vĩnh viễn hay không? Ta không biết. Không thể nào biết được. Người bước vào đời hân hoan dệt mộng, muốn tìm cho mình một chút bình yên, còn cuộc đời luôn tìm cách phá tan cả những ước mơ nhỏ nhoi nhất của con người. Nên xin người hãy cứ nhủ lòng rằng chữ tương phùng đành hẹn lại kiếp sau, và trong cõi chết xin được nối kết những mộng đầu dang dở. Điều đó tưởng chừng như hão huyền, không hiện thực, nhưng chỉ có thế con người mới tìm được chút an ủi cho hồn mình, giữa tan nát thương đau. A Châu đã ngã xuống, nhưng ta tin rằng tâm hồn nàng hân hoan lắm. Ngộ nhận giữa Tiêu Phong và Đoàn Chính Thuần chỉ được cởi mở cùng cái xác lạnh giá của A Châu! Linh hồn thục nữ bao dung Nhạn môn quan hẹn mộng trùng lai xưa. Lệ thương biết mấy cho vừa...
Lý Hạ khóc Tô Tiểu Tiểu, Tố Như và Chu Mạnh Trinh cùng khóc Thuý Kiều, Shakespeare khóc Desdemona, chúng ta cùng khóc A Châu. Thời đại khác nhau, nhưng giọt lệ đau thương dường như chỉ là một. Nước mắt bọn tài tử kim cổ đông tây có an ủi được chút nào không những nữ lang bạc mệnh? Như chàng sinh viên Raskolnikov, trong kiệt tác "Tội ác và Trừng phạt" của Dostoievski trân trọng qùi trước Sonia - một cô gái giang hồ mang trái tim Bồ Tát-, chúng ta cũng 1
1 Xin phép anh hồn nhà thơ Bùi Giáng cho tôi được đổi hai câu lục bát tuyệt diễm của ông một chút đỉnh, để an ủi linh hồn A Châu. Hai câu thơ của Bùi Giáng như sau: Còn không một bạn quay về, Vườn xưa ngó bóng trăng thề vàng gieo" (Nắng buồn - Lá hoa cồn)
57
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
xin nghiêng mình trước họ, như nghiêng mình qùi trước những khổ luỵ thiên thu, những lênh đênh vạn đại của con người. Bao oan nghiệt đoạn trường của nhân loại như chung đúc cả vào những nữ lang bạc mệnh, để ngàn năm đau mãi tiếng tân thanh.
A Châu đã chết, nhưng nàng vẫn còn sống mãi trong tâm hồn Tiêu Phong, trong những chén rượu nồng "Thoáng hiện em về trong đáy cốc, nói cười như chuyện một đêm mơ" (Thơ Quang Dũng). Chính điều đó đã đẩy Tiêu Phong đối diện với nỗi cô liêu cùng cực, khiến người đọc thấy ngậm ngùi khôn xiết. Những lời trăn trối trong nước mắt của A Châu như sợi dây trói ông vào cõi thế, mà ông luôn muốn tìm cách cắt bỏ đi. Nếu như sáu trăm quyển kinh Đại Phẩm Bát Nhã chỉ là những lời chú giải cho một chữ Không (sunyata) trong tư tưởng Phật Giáo Đại Thừa, thì mũi tên tự đâm vào ngực Tiêu Phong nơi quan ải cũng chỉ là một lời "chú giải cho những giọt nước mắt của A Châu.
58
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Bi kịch dân tộc qua thân phận Tiêu Phong
Tôi đã CÓ đôi lần viết về Tiêu Phong, viết trực tiếp về ông, hoặc gián tiếp qua nhân vật A Châu. Nhưng vẫn thấy chưa nói được gì. Bi kịch thân phận của Tiêu Phong quá lớn, nên cuộc đời ông, giống như các nhân vật trong bị kịch Hy Lạp cổ đại, là một suối nguồn hầu như vô tận, một inexhaustible source để người cầm bút đặt lại nhiều vấn đề từ co sở. Từ vấn đề thân phận con người, vấn đề thị phi thiện ác, vấn đề nghiệt oan của Định Mệnh cho đến vấn đề dân tộc. Không một tác phẩm võ hiệp nào, và hiếm có một tác phẩm văn học nào lại đặt lại vấn đề dân tộc một cách cay đắng và bi tráng như Thiên Long Bát Bộ qua nhân vật Tiêu Phong.
Có lẽ chưa bao giờ, lịch sử nhân loại lại phải trải qua những cuộc xung đột sắc tộc mãnh liệt trên phạm vi toàn cầu như hiện nay. Không biết tự bao giờ, những định kiến sắc tộc cứ mãi cháy âm ỉ trong lòng người, và chỉ cần có dịp là nó lập tức bùng lên thành một biển lửa ngập tràn bạo lực. Ngày lại ngày, nhiều nơi trên thế giới lại cứ tiếp tục bị nhận chìm trong máu lửa hận thù; những người anh em này ngã xuống và những người anh em khác lại cứ tiếp tục đứng lên reo mừng chiến thắng. Định kiến sắc tộc, với lưỡi hái của Thần Chết, giờ đây đang bước vào giai đoạn hoàng kim.
Tấn bi kịch trong Thiên Long Bát Bộ có thể xem như bi kịch dân tộc, qua nhân vật kiêu dũng là Tiêu Phong. Tác phẩm mở đầu bằng cái chểt bi thảm của người mẹ, và khép lại bằng cái chết bi tráng của người con. Hai cái chết đều diễn ra tại Nhạn môn quan, cách nhau đến mấy mươi năm và đều do ngộ nhận nảy sinh từ định kiến dân tộc. Như nhân vật người câm trong Le Malentendu của Albert Camus, Nhạn môn quan là một chứng nhân lịch sử cho toàn tác phẩm. Chỉ chứng kiến và im lặng. Để rồi mai sau, sự im lặng đó sẽ dội mãi vào tâm khảm người đọc tiếng gọi khẩn thiết của vấn đề dân tộc.
Mộ Dung Bác vì hoài bão muốn khôi phục lại nước Đại Yên của tổ tiên, nên đã dựng nên tấm thảm kịch tại Nhạn môn quan, nhằm khuấy động can qua giữa hai nước Tống-Liêu để thừa cơ thủ lợi. Quần hùng Trung Nguyên, vì lòng ái quốc mù quáng, đã rơi vào vòng thao túng của Mộ Dung Bác. Họ tổ chức chặn đánh chiếc xe chở vợ chồng
59
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
người Khiết Đan là Tiêu Viễn Sơn cùng đứa con ngay tại vùng biên giới Nhạn môn quan. Người mẹ hiền lành bị giết chết một cách oan uổng, người cha- sau những phút giây chiến đấu kiêu hùng và tuyệt vọng- đã ôm con rơi xuống vực thẳm. Trước khi rơi xuống vực thẳm, người cha đã kịp thời ném đứa con trai còn ẵm ngữa lên nằm giữa vùng đất đầy xác chết ngổn ngang, như một lời thách thức với lương tri. Khi quần hùng Trung Nguyên hiểu ra vấn đề thì tất cả đã quá muộn màng. “Here's the smell of the blood still; all the períumes of Arabia will not sweeten this little hand" (Shakespeare/ Macbeth, Act5, Scene 1) (Hãy còn đây mùi của máu, và tất cả hương hoa vùng Á Rập cũng không rửa sạch nỗi bàn tay nhỏ bé). Bàn tay quần hùng dầu không nhỏ bé, nhưng đã lỡ nhuốm máu người vô tội thì khó lòng rửa sạch. Mọi việc đã lỡ làng, không làm sao cứu vãn được nữa. Quần hùng Trung Nguyên, để tránh nỗi ray rức chắc chắn sẽ ám ảnh suốt đời, nên đem đứa bé trai đó về giao cho một đôi vợ chồng tiều phu nghèo không con dưới chân núi Thiếu Thất. Giá như đứa con trai kia là đứa bé tầm thường thì mọi việc sẽ trôi êm xuôi theo cuộc sống bình yên, và huyết án năm nào tại Nhạn môn quan sẽ bị vùi trong quên lãng. Nhưng người cha đã vốn thuộc nòi long tượng nên người con cũng khí át mây xanh. Và mọi bi kịch đều khởi đầu từ đó. Đứa con tài tuấn kia, bằng phong độ anh hùng và chiến công hiển hách, đã nghiễm nhiên trở thành bang chủ của Cái Bang là Tiêu Phong. Ông nghĩ rằng mình là người Hán, nên đã bao phen không ngại xả thân vì người Hán mà chiến đấu với người Khiết Đan.
Bi kịch dân tộc của ông chỉ bắt đầu từ sự ghen tuông của người đàn bà xinh đẹp là Khang Mẫn, phu nhân của Mã phó bang chủ. Khi quần hùng đã biết ông là người Khiết Đan thì tự nhiên một bức tường ngăn cách lập tức được dựng lên giữa ông và họ. Họ quên ngay một bang chủ Tiêu Phong người Hán kiêu hùng và hào hiệp ngày nào, và thay vào đó là hình ảnh đáng căm hận của một tên "Liêu cẩu" thuộc dân tộc đối nghịch. Định kiến dân tộc quả có một tác dụng mãnh liệt, dễ dàng đẩy con người vào thế đối đầu một mất một còn. Sự xung đột về chính tà trong các tác phẩm khác đã được đẩy lên một bình diện cao hơn trong Thiên Long Bát Bộ, đó là sự xung đột về quan điểm dân tộc. Trên bình diện chính tà, thì Phe chính giáo xem phe Ma giáo là tà ma ngoại đạo, còn phe Ma giáo lại chẳng thèm coi phe Chính giáo vào đâu. Trên bình diện dân tộc, thì người dân nước này cứ luôn lấy
60
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
quốc gia mình làm "hệ quỵ chiếu" để nguyền rủa dân nước bên kia, xem đó như là loài mọi rợ. Người Tống gọi người Liêu là "Liêu cẩu" (bọn chó Liêu). Người Liêu lại gọi người Tống là "Tống trứ' (loài lợn Tống). Chẳng bên nào chịu kém bên nào.
Ngày còn ở Trung Nguyên, khi chứng kiến cảnh quân lính Khiết Đan tàn sát dân Tống ở vùng biên giới, ông đã thẳng tay chém giết bọn lính Khiết Đan mà ông xem như thuộc về một dân tộc man rợ. Nhưng trong những tháng ngày sống noi vùng biên giới cùng A Tử, cũng như khi làm Nam viện đại vương, ông có nhiều phen chứng kiến cảnh giết chóc lẫn nhau giữa hai dân tộc nơi biên giới. Quân lính Khiết Đan dưới quyền ông cũng tàn ác và dã man đối với người dân đất Tống không kém bọn lính Tống đối với người dân nước Liêu. Tại biên giới, hai bên giết hại lẫn nhau như giết loài chó lợn, và cũng luôn nhân danh con người để lên án lẫn nhau. Chân lý nằm ở đâu, khi mà định kiến về quốc gia vẫn đè nặng lên con người muôn thuở? Ông chợt nhận ra cái nhỏ nhoi vô lý trong định kiến khắt khe về dân tộc. Mặc dù là con dân nước Liêu nhưng quê hương thật sự của Tiêu Phong lại là Trung Nguyên. Nơi đó đã chứng kiến bao thăng trầm vinh nhục của đời ông, nơi đó ông đã trải qua bao vui buồn cùng hào sĩ khắp giang hồ. Do đó, ông thực sự chán nãn khi vua Liêu muốn ông cầm đầu cuộc chinh phạt Trung Nguyên. Để làm gì cho cuồng vọng dân tộc, khi mà cái giá phải trả là cái chết của muôn vạn sinh linh?
Nhưng phận làm bề tôi sao có thể trái lệnh vua? Ông dự định dẫn A Tử trốn về Trung Nguyên, nhưng A Tử, do mù quáng vì tình yêu, đã cho ông uống một loại "thuốc yêu", mà theo hoàng hậu nước Liêu sẽ khiến người uống nó thương yêu mình mãi mãi! Loại "thuốc yêu" đó đã khiến ông mất hết nội lực, và bị bắt khi dẫn A Tử chạy trốn lúc nửa đêm. Ngày xưa, người chị là A Châu dịu hiền đã vì chữ hiếu mà làm tan nát cả trái tim ông, thì lần này người em tai quái là A Tử lại vì chữ yêu mù quáng mà khiến ông bị bắt. Ông bị cầm tù, và quần hùng Trung Nguyên đã tổ chức vượt qua Nhạn môn quan để vào đất Liêu cứu ông. Khi cùng quần hùng chạy trốn đến Nhạn môn quan thì cửa ải lại khép kín, trong khi truy binh của vua Liêu đuổi gấp phía sau, ông cùng quần hùng bị kẹt ngay tại làn giới tuyến giữa hai quốc gia thù địch. Bên kia Nhạn môn quan là đất nước của một dân tộc đã từng xem như ông như kẻ thù, nhưng lại là nơi ông đã trải qua bao vui buồn từ thời thơ ấu. Bên này Nhạn môn quan là đất nước quê hương,
61
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
nhưng dân tộc đó đã xem ông như một tên phản bội. Trời đất mênh mông nhưng không có nơi nào chứa đựng nổi bi kịch quá lớn của con người! Chết tại Liêu ư? Hồn khách anh hùng sẽ lấy gì để đáp tạ tình huynh nghĩa đệ của hào sĩ Trung Nguyên? Chết ở Tống ư? Người con dân nước Liêu đó ắt sẽ biến thành hồn ma suốt đời ngóng vọng về cố quốc. Nếu trong cõi tư tưởng, con người có thể tiêu dao dao giữa hai cõi thị phi thiện ác, thì trong "cõi người ta", con người buộc phải chọn lựa. Nhưng phải chọn lựa ra sao, khi mà mọi ngã đường đều dẫn vào tuyệt lộ? Cho nên Kim Dung phải để Tiêu Phong chết nơi biên giới, nấm mộ ông không ở Liêu cũng chẳng ở Tống mà là vực thẳm nơi Nhạn môn quan. Đó có lẽ là lối thoát tất yếu và cuối cùng cho vấn nạn về dân tộc. Hán Liêu nào biết về đâu. Ngậm ngùi tiếng hát A Châu thuở nào. Rượu chìm trong cõi chiêm bao.
Bi kịch tuổi thơ của Tiêu Phong đã bắt đầu tại Nhạn môn quan. Và ông chấm dứt bi kịch đời mình bằng mũi tên tự đâm vào ngực, cũng tại Nhạn môn quan. Nhạn môn quan ngàn đời sừng sững giữa hai nước Tống -Liêu như định kiến không thể phá bỏ nỗi về quốc gia và biên giới trong tâm trí con người. Nhưng Nhạn môn quan kia dẫu cao sừng sững, cao đến mức làm nãn lòng cả những đàn hồng nhạn thiên di, con người vẫn có thể vượt qua được, song đến ngày nào chúng ta mới có thể thực sự vượt qua được những "Nhạn môn quan" trong tâm tưởng?
Kinh Thánh chép rằng thời xa xưa, con cháu của Noah kiêu ngạo muốn lên đến cả trời nên mới xây tháp Babel tại bình nguyên Shinar ở Babylonia (Holy Bible, Genesis 11:1-9). Đức Chúa Trời thấy vậy bèn khiến cho họ nói đủ thứ tiếng để họ không còn hiểu lẫn nhau, và công trình đành bỏ dỡ. Từ đó, con người phải chia xa nhau để sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Nếu quả vậy, thì có lẽ dân tộc cũng hình thành từ đó, và sự xung đột dân tộc cũng bắt đầu từ đó cho mãi đến ngày nay. Đó phải chăng cũng là sự trừng phạt của Thượng Đế cho sự kiêu ngạo ngu xuẩn của con người?
62
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Mạc Đại tiên sinh: cánh độc hạc u hoài
Cục diện đương trường đang hồi căng thẳng tột độ, khi đại cao thủ của phái Tung Sơn là Đại tung dương thủ Phí Bân chuẩn bị mở sát giới, thì bất ngờ tiếng hồ cầm vang lên, và một bóng người gầy gò xuất hiện dưới tàng cây. Tiếng hồ cầm đột nhiên dứt bặt, lưỡi kiếm mảnh đã tung ra như con bạch xà lấp loáng dưới ánh trăng thượng huyền. Và Phí Bân ngã gục dưới các kiếm chiêu thần tốc. Kiếm quang vụt tắt, tiếng hồ cầm ai óan lại trổi lên, ảo não và mơ hồ theo từng bước chân xa dần của Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh. Một thảm họa được vãn hồi. Tấn kịch xảy ra chớp nhoáng và lặng lẽ trong đêm vắng. Vị kiếm khách bất ngờ đến rồi bất ngờ đi. Âm thầm và cô đơn. Như chính tâm sự u hoài của vị chưởng môn kì lạ ấy.
Trong suốt tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung chỉ phác họa một vài nét chấm phá đan thanh về Mạc Đại tiên sinh nhưng đã để lại ấn tượng lạ thường về vị chưởng môn phái Hành Sơn, làm người đọc bồi hồi khôn xiết. Ngày sư đệ ông là Lưu Chính Phong rửa tay gác kiếm, một sự kiện lớn làm xôn xao cả giang hồ, người ta chờ mong ông về nhưng ông vẫn biệt tích. Trong cảnh náo nhiệt của thành Hành sơn ngày đó, nhiều người đang háo hức muốn hội kiến ông, thì có ai ngờ nỗi ông lão gầy ốm quê mùa, ôm cây hồ cầm ngồi hát trong quán trà, thản nhiên nhận những đồng xu bố thí như một ông lão ăn mày, lại là vị chưởng môn mà người ta đang ngóng đợi! Người ta chỉ kịp nhận ra ông lúc ông đã đi khuất, sau khi tung một đường gươm tinh ảo chém đứt bảy miệng chén trà, để cảnh báo các khách giang hồ ba hoa hiếu sự. Như một kẽ "đại ẩn" giữa đời, con người cô độc kia lại lặng lẽ ra đi, nhưng đã để lại sau mình dư hưởng của tám chữ làm kinh động võ lâm "Cầm trung tàng kiếm, kiếm phát cầm thanh" (Trong đàn có dấu kiếm, kiếm phát ra như tiếng đàn ). Khi tấn thảm kịch xảy ra trong Lưu phủ, toàn gia Lưu Chính Phong bị giết sạch, khiến bao tay hảo thủ giang hồ phải chấn động tâm thần, vẫn không thấy ông xuất đầu lộ diện. Rồi bất ngờ, ông lại hiện ra như hồn ma giữa đêm khuya, giết chết Phí Bân để cứu sống năm mạng người: Lệnh Hồ Xung, Khúc Phi Yến, Nghi Lâm, và cả hai đại cao thủ chính tà Lưu Chính Phong và Khúc Dương trưởng lão. Rồi ông lại tuyệt tích giang hồ. Cứ phiêu nhiên mà đến rồi phiêu nhiên mà đi. Như một cánh hạc cô đơn, Mạc
63
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
Đại tiên sinh mãi ruỗi rong giữa cõi phong trần với cây hồ cầm vàng ố và một tâm sự ngậm ngùi khó hiểu. Là chưởng môn một môn phái lớn mà cứ làm một người phiêu đãng lênh đênh. Không gia đình, không thân hữu. Sống giữa cõi đời, mà tâm sự cứ như mây bay, hạc lánh. Người ta cho rằng ông và sư đệ là Lưu Chính Phong không hợp tính tình nhau, dù cả hai đều là những nghệ sĩ thượng thừa. Điều đó dẫu có đáng tiếc chăng nữa, thì cũng là chuyện thường tình. Ớ trên đời có biết bao nhiêu tâm hồn hoằng đại vẫn ngộ nhận nhau suốt cả bình
sinh?
Giữa bao nhiêu sóng gió giang hồ, bỗng nhiên Mạc Đại tiên sinh lại xuất hiện, vẫn dưới lớp một ông lão quê mùa ngồi độc ẩm trong một quán rượu vô danh trên bờ sông Hoàng Hà, để nhắn nhủ Lệnh Hồ Xung nên làm minh chủ và dẫn quần hùng hắc đạo lên Thiếu Lâm tự cứu Nhậm Doanh Doanh. Trong khi một bậc cao nhân thế ngoại là Xung Hư đạo trưởng tìm cách ngăn cản không cho Lệnh Hồ Xung làm việc đó, thì thái độ và hành động của Mạc Đại tiên sinh tỏ ra ông có cái tâm nhân bản hơn rất nhiều. Mặc dù Xung Hư đã biết rõ chuyện Doanh Doanh, vì tình yêu nên phải xả thân, hi sinh cứu Lệnh Hồ Xung, để chấp nhận cái giá phải trả là chung thân chịu giam cầm trong thạch thất, nhưng dưới mắt vị chưởng môn phái Võ Đang kia, Nhậm Doanh Doanh cũng vẫn chỉ là một "nữ ma đầu". Ông còn khuyên Lệnh Hồ Xung nên quên Nhậm Doanh Doanh đi, để tìm một nơi "danh môn chính phái', cho xứng đáng với tài năng và phẩm
hạnh. Làm như "danh môn chính phái" là cái gì đó ghê gớm lắm trên cõi đời này! Vị đệ nhất kiếm thủ đương thời đó, kiếm pháp đã cực cao ắt phải có được cái tâm cực tĩnh và đạo hạnh cực thâm, thế sao ông vẫn còn nặng định kiến về chính tà đến vậy! Sự hi sinh của Doanh Doanh vì tình yêu đâu phải là điều dễ tìm thấy trên cõi đời này? Từ thân phận một "Thánh Cô" cực kì cao ngạo, thanh uy trùm cả võ lâm với hàng trăm ngàn người cầu cạnh, thế mà cô lại chấp nhận hi sinh vì Lệnh Hồ Xung. Điều đáng cảm động nhất là sự hi sinh đó lại diễn ra ngay tại thời điểm mà gã tửu đồ lãng tử kia đã thân bại danh liệt, như một thây ma vất vưỡng giữa cõi giang hồ.
"Sĩ vị tri kỉ giả tử', kẻ sĩ chịu đem cái chết để đáp đền tấm lòng tri kỉ, là chuyện rất nhân bản ở đời thường. Kinh Kha vì Thái tử Đan mà vượt sông Dịch sang Tần. Dự Nhượng vì cảm tấm lòng đãi ngộ "quốc sĩ " mà chịu hủy họai thân thể để báo thù cho Trí Bá. Khổng Minh
64
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
nguyện "óc gan lầy đất' để đáp đền ơn tri ngộ của Lưu Tiên chúa. Bá Nha ngậm ngùi đập vỡ cây đàn trên nấm mộ Tử Kì. Giữa kẻ sĩ và tri kỉ còn vậy, huống hồ đây lại là một tri kỉ hồng nhan? Antony đã vì Cléopâtre mà chấp nhận hi sinh cả cơ đồ, để về chết dưới một nụ môi hôn. Từ Hải đã vì Thúy Kiều mà hân hoan làm "người tử sinh", để sự nghiệp năm năm hùng cứ bị vùi chôn nơi thiển thổ. Cho nên Kim Dung có để Lệnh Hồ Xung khước từ tất cả, sẵn sàng chấp nhận cả cái chết, để quyết tâm cứu cho được Doanh Doanh, thì đó cũng chỉ là một cách tiếp theo cung bậc đa tình của bao thiên tài kim cổ. Chốn suối vàng, Shakespeare ắt hẵn sẽ cùng Nguyễn Du nắm tay nhau mà nhắc chuyện Kim Dung! Người xưa cho rằng chỉ có bậc thánh nhân mới quên được tình, và chỉ có người ngu mới không biết đến tình. Thánh nhân thì vong tình, ngu phu thì vô tình. Bọn chúng ta, với trái tim huyết nhục, ắt hẵn không thể đạt nỗi đến cảnh giới vong tình, nhưng cũng không thể là những kẻ ngu xuẫn vô tình. Nên suốt đời cứ cưu mang mãi một chữ tình để đắm chìm giữa cõi trăm năm. Câu nói của Trương Trào, một thi sĩ Trung Quốc, cách đây ba thế kỉ mà nghe ra vẫn còn vô cùng thắm thiết "Một chữ tình để duy trì thế giới, một chữ tài để tô điểm càn khôn". Ôi! cái tình là cái lụy, nhưng thử hỏi không có cái lụy ấy thì cõi đời sẽ buồn tẻ và đơn điệu biết bao nhiêu? Vị đạo trưởng khả kính được tôn xưng là Thái Sơn Bắc Đẩu của võ lâm đó, có lẽ do chỉ sống mãi với cõi đạo thanh tĩnh vô vi, nên không cảm thông được sự nhiệm màu của chữ "Tình". Hai chữ "vong tình" và "vô tình" sao mà gần nhau đến thế!
Khác hẳn Xung Hư đạo trưởng, Mạc Đại tiên sinh lại nhìn Doanh Doanh bằng đôi mắt đầy tính nhân văn của một kẻ hữu tình. Trong khi tất cả các nhân vật thuộc phe "chính giáo" xem chuyện giam cầm Doanh Doanh là một việc bình thường, thậm chí là đúng đạo lý và thích đáng với các việc làm của cô, thì chỉ có mỗi một Mạc Đại tiên sinh quan tâm và thôi thúc Lệnh Hồ Xung lên đường giải cứu Doanh Doanh. Khi Lệnh Hồ Xung thỉnh cầu ông đảm nhận trọng trách, thay thế gã bảo vệ cho các ni cô phái Hằng sơn, để gã an tâm lên đường, thì Mạc Đại tiên sinh chỉ đáp ứng bằng sự yên lặng và những tiếng hồ cầm ai oán. Từ trạng thái hân hoan khi cùng Lệnh Hồ Xung đối ẩm, xem gã tiểu diệt kia như một người bạn vong niên, bỗng nhiên ông lại rơi vào trạng thái cô đơn cố hữu. Dường như trong đời, vị kiếm khách cô độc đó chỉ một lần hân hoan khi thấy Lệnh Hồ Xung, sau khi nghe
65
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
ông kể rõ câu chuyện về Nhậm Doanh Doanh, đã nôn nóng lên đường đến Thiếu Lâm tự. Điều đó khiến người đọc cảm động xiết bao. Dưới đôi mắt lạnh lùng cô độc của Mạc Đại tiên sinh, chân dung cô "nữ ma đầu" Nhậm Doanh Doanh đã hiện ra như một nữ thánh chịu khổ nạn đóng đinh trên cây thập giá của Tình yêu! Làm người, phải có cái tâm lớn mới cảm hết được cái tình sâu. Trong tất cả các bậc tôn trưởng phe chính giáo, có lẽ chỉ Mạc Đại tiên sinh mới có được cái tâm lớn để thấu hiểu được cái tình sâu của Nhậm Doanh Doanh.
Kim Dung đã sáng tạo nên một nhân vật kì lạ, cô độc khắc khổ là Mạc Đại tiên sinh. Và Kim Dung cũng không cho độc giả hiểu vì lý do nào mà ông mang tâm sự bi thương ấy. Thế nhưng chỉ qua một đọan ngắn hội kiến cùng Lệnh Hồ Xung trên quán rượu ven sông, tấm lòng quan hoài của ông đối với một "nữ ma đầu" phe đối địch, lai không có liên hệ gì đến ông, đã khiến chúng ta cảm mến ông bao xiết! Dưới lớp vỏ cô độc khắc khổ đó lại là trái tim nặng trĩu tình người của một kiếm khách tài hoa. Có lẽ trong đời, ông đã có một tâm sự u sầu tột bậc. Vì tình yêu? Vì thân phận? Vì những mộng hoài dang dở buổi thanh xuân? Ta không rõ nhưng vẫn có thể cảm thông. Vì ở trong đời, có biết bao nhiêu kẻ mang tâm sự u oán hận sầu mà không biết tỏ cùng ai, và cũng không thể tỏ cùng ai. Khách giang hồ như Mạc Đại tiên sinh thì làm gì có một Thượng Đế để cầu nguyện, nên suốt đời phải gởi tâm sự vào chén rượu và cung bậc hồ cầm ảo não thê lương. Cho dẫu khi, do gian mưu của Nhạc Bất Quần, ông cùng quần hào ngã gục giữa đám loạn kiếm trong thạch động sau núi Hoa Sơn, thì có lẽ tâm sự u hoài của Mạc Đại tiên sinh vẫn sẽ còn mãi mãi bay theo cánh hạc cô đơn giữa cõi giang hồ, cùng tiếng hồ cầm trong cung đàn Tiêu Tương dạ vũ.
Các tác giả có đỉnh cao của trí tuệ và chiều sâu của tâm hồn, thường dành ra những "khoảng không vắng lặng' lửng lơ trong tác phẩm mình, không lý giải, mà cứ để độc giả tự suy tư. Đó là Nguyễn Du với bi tâm của Từ Hải, là Kim Dung với tâm sự của Mạc Đại tiên
sinh. Chính các "khoảng không vắng lặng' đó lại nói cho chúng ta rất nhiều về tâm tình của nhân gian và ý nghĩa đời!
66
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Nhậm Ngã Hành: cái tôi và bản lĩnh
Ngạn ngữ phương Tây nói: "Cái tôi là cái đáng ghét' {Le moi est haĩssant). Bản tính con người xưa nay đều luôn nghĩ đến mình trước hết, cho nên cái tôi tạo ra một lớp vỏ bọc kín tâm hồn và chận đứng mọi nẻo cảm thông giữa người với người.
Tôn giáo hay triết học phương Đông đều dạy con người tiêu trừ bãn ngã, vì xem đó là điều chướng ngại ngăn cản con người trên con đường tu học. Đức Phật thực hiện Từ Bi, Chúa Jésus rao giảng Bác Ái, đức Khổng Tử giảng dạy đức Nhân, cũng đều nhằm mục đích dẫn dắt con người đến chỗ thương yêu khắp cả chúng sinh như chính mình, hay xem tất cả mọi người đều đồng một thể. Người nông dân Việt Nam nói đơn giản và ngắn gọn hơn: "Thương người như thể thương thân". Không có phân biệt ta và người. Những ai "sính" loại triết học hàn lâm thì bảo đó là "để Tiểu Ngã hòa tan trong Đại Ngã" theo kiểu Ân Độ, hoặc "vạn vật dữ ngã vi nhất " theo kiểu Trung Hoa, hoặc "không còn phân biệt chủ thể với khách thể" theo kiểu triết học hiện đại v.v... Những trò chơi ngôn ngữ rối rắm vô bổ và rỗng tuếch đó đã làm hao tổn bút mực lẫn trí não của rất nhiều học giả Đông Tây rồi, và của cả những người sính triết học. Chúng ta hãy học tập cách người nông dân chân chất là xếp chúng qua một bên để mặc cho các học giả bàn luận, rồi cứ ung dung dắt trâu đi theo con đường ruộng giữa cánh đồng bao la với bàn chân đất, chỉ để nghe tiếng nói sâu thẳm từ chính trái tim mình.
Xã hội có văn hóa thường buộc con người phải tìm cách giấu đi cái tôi. Người nào nói nhiều đến cái tôi có nghĩa là người kém văn hóa. Phải nói đến "người ta" và "chúng ta" hoặc chí ít cũng phải là "chúng tôi". Rõ khổ! Vì dù ít dù nhiều ai cũng muốn phô diễn cái tôi. Do đó, cái tôi lại luôn tìm cách xuất hiện lấp ló đằng sau những nghi thức xã giao, thông qua những câu nhún nhường khiêm tốn, thường có tính giả vờ! Chỉ có những thiên tài thực sự mới đủ bản lĩnh để không ngần ngại bộc lộ cái tôi bằng tất cả sự kiêu hãnh hồn nhiên.
Theo kinh điển Phật giáo ghi lại thì khi vừa mới sinh ra đời, đức Phật đã bước đi bảy bước trên tòa sen và cất tiếng như sư tử hống: "Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn".' (Trên trời dưới đất, chỉ có Ta
67
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
là tôn quý). Đó có lẽ là ngày đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, cái Tôi được khẳng định một cách minh triết và hùng hồn nhất. Một tôn giáo xiển dưong quan điểm "sắc tức thị không, không tức thị sắc" và dùng một loạt mười tám loại "Không" từ "Nội không" cho đến "Vô pháp hữu pháp không''trong kinh Bát Nhã để đẩy toàn bộ cái thế giới hữu sắc này đến chỗ tận cùng của chân không, thì chính tôn giáo ấy lại khởi đầu bằng cách khẳng định một cách tuyệt đối cái tôi! Bỏ qua một bên những ý nghĩa siêu huyền mang tính tượng trưng và ẩn dụ (dĩ nhiên) trong lời tuyên bô đó, ta chợt bắt gặp lại, ở một bình diện thấp hon, câu ngạn ngữ phưong Tây bảo "Les extrémités se touchent' (cái cực đoan thường gặp nhau) Cái cùng cực của phủ nhận lại chính là cái cái cùng cực của khẳng nhận. Cũng như chỗ son cùng thủy tận của khoa học phưong Tây lại tiếp giáp với cõi bờ huyền học phương Đông, cho nên vũ trụ của Einstein lại hòa nhập trong lời thơTagore!
Lý Bạch là nhà thơ vô cùng kiêu ngạo. Trong một đêm khuya yên tĩnh, nhìn tinh tú lấp lánh chiếu sáng trên không, ông ngẫu hứng muốn làm thơ, nhưng lại không dám viết thành câu vì sợ các vì tinh tú nghe được sẽ rùng mình rơi cả xuống dòng sông lạnh:
Dạ tĩnh bất kham đề tuyệt cú Đãn kinh tinh đẩu lạc giang hàn (Đêm khuya không dám đề thơ chỉ e sao rụng lạnh bờ sông đêm)
Có một bài thơ tứ tuyệt của Lý Bạch, người ta thường cho rằng đó là bài thơ tả cảnh nhưng thật ra đó là bài thơ kiêu ngạo thượng thừa:
Chúng điểu cao phi tận cô vân độc khứ nhàn tương khan lưỡng bất yếm duy hữu Kính Đình san
(Chim chóc đã bay về tổ hết; đám mây lẻ loi đang lờ lững trôi;
68
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
nhìn nhau mà không chán; chỉ có ta và núi Kính Đính).
Chỉ có núi Kính Đình là có thể nhìn ta giữa trời đất bao la để cảm nhận được sự hùng vĩ của nhau mà không chán! Đó là ngạo khí của kẻ "khí thôn chư tử vô toàn mục" (ngạo nghễ chưa xem ai vừa mắt) 1.
Beethoven từng phẫn nộ quát mắng bọn quý tộc: "Các ông cần hiểu rằng quý tộc các ông đời nào cũng có> nhưng Beethoven này phải cả trăm đời mới có được một người"!
Đó đều là niềm xác tín đầy kiêu ngạo về cái Tôi của những người hiểu rõ thiên tài của mình.
Trong tất cả các tác phẩm của Kim Dung, có lẽ chỉ có ba nhân vật văn võ toàn tài, vừa có võ công tuyệt đỉnh lại vừa có trí huệ sắc bén, và là ba nhân vật kiêu ngạo bậc nhất. Đó là Hoàng Dược Sư, Tạ Tốn và Nhậm Ngã Hành. Nếu Hoàng Dược Sư hấp dẫn người đọc bởi cái tài hoa cô độc, nếu Tạ Tốn khiến người đọc kính nể vì kiến văn uyên bác, thì Nhậm Ngã Hành làm người đọc khoan khoái vì chất lỗ mãng giang hồ. Và ông là bậc đại tôn sư võ học duy nhất không ngần ngại phô diễn cái tôi với tất cả cái xấu lẫn cái tốt của nó, đúng với cái tên Nhậm Ngã Hành (để mặc ý ta làm). Cái tài hoa của Hoàng Dược Sư dù sao vẫn còn mang chút màu mè của hạng quý tộc, sự uyên bác của Tạ Tốn vẫn có một chút từ chương của giới hàn lâm, chỉ có Nhậm Ngã Hành là hoàn toàn chất phác, giống như chưởng pháp của ông khi giao đấu với Thiên Thủ Như Lai chưởng của Phương Chứng đại sư. Người sao chưởng vậy, không ly kỳ biến ảo, nhưng trong thô phác lại hàm chứa tinh hoa.
Chỉ những người có bản lĩnh thực sự và có sở đắc chân chính như Nhậm Ngã Hành mới dám vất bỏ mọi lớp vỏ văn hóa hoa hòe che phủ bản thân, để hiện ra một cách trần trụi với mọi cái xấu, cái tốt không thèm che dấu, như Một Con Người thực sự. Khi thì ăn nói cùng cực sắc bén đúng với phong độ của một đại tôn sư võ học, khi thì hành xử rất mực thô lỗ, thậm chí hạ cấp, như bọn hảo hán giang hồ.
Đánh mãi với Phương Chứng, liệu thế không xong thì vờ tấn công Dư Thương Hải để dùng mưu đánh ngã Phương Chứng. Không thích Tả Lãnh Thiền nhưng lại thành thật công nhận:"Nễ võ công liễu
1 Thơ Tô Đông Pha nói về Lý Bạch
69
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
đắc; tâm kế dã thâm, ngân hợp lão phu đích đảm trụ"' (ngươi võ công có chỗ hơn người, lại có mưu kế sâu, điều đó rất hợp với tâm ý lão phu"). Ông chỉ chê Tã Lãnh Thiền một điểm là đã có dã tâm thôn tính Ngũ Nhạc kiếm phái thì cứ ngang nhiên mà làm, không cần phải dùng đến những thủ đoạn lén lút, những âm mưu quỷ kế đê hèn không xứng đáng với bậc anh hùng hảo hán. Nhậm Ngã Hành cũng không hề che dấu tham vọng bá chủ võ lâm của mình.
Hiếm có vị tôn sư võ học nào lại ngang nhiên tự nhận: "Lão phu võ công ký cao, tâm tư hựu thị cơ mẫn vô tỷ, chỉ đạo phổ thiên hạ dĩ vô kháng thủ" (lão phu võ công đã cao, tâm tư lại bén nhạy nhất đời, cứ cho rằng khắp thiên hạ không có đối thủ). Và do đó ông phải vô cùng bội phục kẻ đã soán đoạt ngôi vị giáo chủ của mình là Đông Phương Bất Bại.
Đối với Xung Hư đạo trưởng thì ông ca ngợi nhân cách và Thái cực kiếm pháp của vị chưởng môn hết lời, nhưng lại khẳng định ngay: "Nễ đích Thái cực kiếm pháp tuy cao, vị tất thắng đắc quá lão phu" Thái cực kiếm pháp của đạo trưởng tuy cao, nhưng chưa chắc đã thắng nỗi lão phu)!
Môn Hấp tinh đại pháp mà Nhậm Ngã Hành khổ luyện cũng có ý nghĩa riêng của nỏ:gom hết những tinh hoa trong thiên hạ để về phục vụ cho chính cái tôi. Đó cũng là môn võ công biểu hiện quan điểm cực đoan của "Duy ngã độc tôn". Cái tôi của Nhậm Ngã Hành khi được khoáng trương đến cực độ thì tại điểm "bách xích can đầu" sẽ "hoặc dược tại uyên" (nhảy vào hố thẳm), như con rồng của quẻ Kiền trong kinh Dịch, để vỡ tan ra từng mãnh. Bước nhảy đó sẽ là điều kiện tối hậu để Nhậm Ngã Hành với Hấp tinh đại pháp bắt gặp kịp Phương Chứng đại sư với Dịch cân kinh. Cái tâm đại bi vô lượng của một bậc đại tôn sư võ học sẽ hóa giải cái tôi cực kỷ bá đạo của một đại tôn sư võ học khác, cũng như cái Duy Ngã Độc Tôn sẽ cùng cõi Chân Không Diệu Hữu viên dung nhất thể. Cái Tôi được khẳng định đến cùng cực, khi gặp cơ duyên, sẽ dễ dàng tan biến vào cái đối cực của nó là cõi Man Mác Huyền Minh. Giá như Nietzsche sống lại, ắt hẵn sẽ trỏ vào Nhậm Ngã Hành mà nói "Ecco Homo" (đây là một con người)!
Nhưng muốn biểu hiện cái tôi như Nhậm Ngã Hành thì ta phải có bản lĩnh chân thực. Không có bản lĩnh chân thực thì cái tôi đó
70
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
cũng chỉ là cái hình ảnh thảm hại của năm anh chàng võ nghệ mèo quào học đòi lên Hoa sơn luận kiếm! Như Tây Thi nhăn mặt thì cả làng đều say đắm, Đông Thi bắt chước nhăn mặt thì cả làng đều bỏ chạy. Muốn học cách viết Sử Ký như Tư Mã Thiên thì phải học cách du sơn ngoạn thủy như Tư Mã Thiên, muốn kiêu ngạo và phô diễn cái tôi như Nhậm Ngã Hành thì tự xét mình đã có được cái bản lĩnh như Nhậm Ngã Hành không? Có dám ngang nhiên phơi bày mọi cái xấu lẫn cái tốt, vì hiểu rằng cái xấu hay tốt đó đều "bất khả tư nghĩ' đối với cao thủ cỡ Dư Thương Hải không? Và có thực dám "nhậm ngã hành" (cứ làm theo ý ta) không? Có dám tự thấy "Lão phu võ công kỹ cao, tâm tư hưu thi cơ mẫn vô tỷ, chỉ đao phổ thiên ha dĩ vô kháng thử' chưa?
Phải học nói rất nhiều trước khi muốn im lặng, phải đọc sách rất nhiều để hiểu rằng kiến thức chỉ là trò "điêu trùng tiểu kỹ " vô cùng vụn vặt, phải "Bao đêm thao thức thật thà" rồi mới ngộ ra rằng "Sưu tầm chân lý té ra tầm ruồng" (Thơ Bùi Giáng). Phải đẩy cái Tôi đến chỗ tận cùng rồi mới có cơ duyên để để trừ bỏ nó. Và đằng sau cái tôi đó phải là bản lĩnh chân thực. Vì đó chính là điều kiện để con người rủ bỏ tất cả và "hoặc dược tại uỵên"\
71
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Lệnh Hồ Xung: Chân dung gã tửu đồ lãng tử
Dường như có một qui luật trong sáng tạo của các thiên tài là: các tác phẩm thường đi từ bi đến lạc hoặc đi từ lạc đến bi. Nhà viết kịch vĩ đại Shakespeare, sau các hài kịch Much ado about nothing, The merchant of Vernice v.v... lại sáng tạo tiếp các bi kịch như King Lear, Othello, Macbeth V.V.... Còn Kim Dung thì ngược lại, sau các tác phẩm làm tan nát lòng người như Thiên long bát bộ, thì Tiếu ngạo giang hồ là tác phẩm tương đối ít bi thương. Khung trời máu lửa của võ lâm dường như đã bắt đầu tươi sáng hơn khi mà các thành kiến chính tà và thị phi ân oán cũng như tham vọng thống nhất giang hồ đều tiêu dung, hoá giải trong khúc cầm tiêu hợp tấu Tiếu ngạo giang hồ của Nhậm Doanh Doanh và gã tửu đồ lãng tử Lệnh Hồ Xung.
Trước khi Lệnh Hồ Xung xuất hiện trong tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung đã chuẩn bị một bối cảnh khá chu đáo, dù chỉ toàn bằng lời kể. Chính sự có mặt trong vắng mặt càng làm tăng thêm vẽ hấp dẫn cho nhân vật cực kì đáng yêu này. Thoạt tiên người ta chỉ biết đến gã như tên 11 bợm nhậu" khi lừa một ông lão ăn mày để uống hết vò rượu ngon bằng nội công thâm hậu của mình. Kế đó, gã lại hiện ra như là kẻ mất nết ưa gây hấn khi giao du với tên dâm tặc Điền Bá Quang và giết đệ tử phái Thanh Thành. Bao nhiêu ác cảm, ngộ nhận đều trút lên đầu gã. Chỉ từ lúc cô tiểu ni xinh đẹp Nghi Lâm xuất hiện thì mọi chuyện mới thay đổi, và qua lời kể của cô, chân dung tên tửu đồ bẻm mép, giảo hoạt đó mới bắt đầu hiện rõ nét như là một người trượng nghĩa, thông minh và cực kì liều lĩnh. Đến khi gương mặt nhợt nhạt của gã, với đôi môi mỏng dính và đôi mày hình lưỡi kiếm hiện ra trên giường của một kỉ viện thành Hành sơn thì độc giả đã hình thành thêm được tính cách của gã: ngang tàng, đởm lược, ứng biến cực kì mau lẹ. Có gì lý thú hơn khi chưởng môn phái Thanh Thành là Dư Thương Hải bị gã, dù toàn thân bất lực do bị trọng thương, dùng mẹo khiêu khích, lừa không cho mở tấm mền giấu Khúc Phi Yến và Nghi Lâm đang run sợ bên cạnh gã. Một dạng biến tướng thông minh của mưu kê kiểu "Không thành" mà Khổng Minh dùng lừa Tư Mã Ý, làm người đọc vô cùng khoan khoái!
Có lẽ tất cả các chi tiết trên chỉ là sự chuẩn bị của Kim Dung về tính cánh của Lệnh Hồ Xung để lý giải việc lý dó vì sao gã có cơ
72
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
duyên được Phong Thanh Dương truyền cho môn kiếm pháp vô địch thiên hạ: Độc Cô cửu kiếm, môn học không chỉ đòi hỏi trí thông minh mà còn cần phải có một tâm hồn khoáng đạt, không câu nệ, cố chấp, và ứng biến linh hoạt. Người đọc làm sao quên được đoạn gã bị phạt trên đỉnh núi Hoa sơn và buộc phải đấu kiếm nhiều phen với Điền Bá Quang để khỏi bị họ Điền 11 mời" xuống núi. Cùng uống vời họ Điền hai vò rượu quí hiếm duy nhất thê gian là để tạ tình tri kỉ, dù họ Điền là tên dâm tặc, đó là cái tình, uống xong, tuốt kiếm đánh nhau, không chấp nhận xuống núi vì tuân theo sư mệnh, đó là cái lí. Khi gã dùng một mẹo vặt khá tồi bại, không xứng đáng với đệ tử danh môn chính phái, để gạt được Điền Bá Quang nhằm tranh thủ thêm thời gian học môn Độc Cô cửu kiếm, gã biện bạch với Phong Thanh Dương là: đối với bọn đê hèn vô liêm sỉ thì phải dùng thủ đoạn đê hèn vô liêm sỉ, người đọc hồi hộp biết ngần nào khi nghe vị tôn sư võ học kia nghiêm nghị hỏi lại: 11 Thế đối phó với bậc chính nhân quân tử thì saoì". Câu hỏi như một loại công án thách thức sự ứng biến chân thành. Gã đã thành thực lẫn bạo gan trả lời đúng với tính cách của mình, không một lớp sơn phù phiếm hoa hoè giả tạo của môn qui: 11 Cho dù bọn họ có là bậc chính nhân quân tử đi nữa, mà nếu như họ muốn giết đệ tứ, thì đệ tử quyết không cam tâm để bị giết, cùng lắm đến lúc chẳng đặng đừng đó/ thì thủ đoạn hèn hạ vô liêm sỉ cũng phải dùng tạm chớ biết làm saol" (Tựu toán tha chân thị chính nhân quân tử, thảng nhược tưởng yếu sát ngã, ngã dã bất năng cam tâm tựu lục, đáo liễu bất đắc dĩ đích thời hậu, ti bỉ vô sỉ đích thủ đoạn, dã chỉ hảo dụng thượng giá ma nhất điểm bán điểm liễu ). Người đọc lo ngại thay cho gã, sợ câu nói liều lĩnh làm phật ý vị Thái sư thúc tổ của môn phái. Ngờ đâu ta còn khoan khoái hơn khi nghe Phong Thanh Dương tươi cười rạng rỡ, nói: "Hay lắm, hay lắm! Câu nói của nhà ngươi đúng là khác với bọn ngụy quân tử giả mạo bịp đời. Bậc đại trượng phu hành sự thích việc gì ra việc nấy, linh hoạt như nước chảy mây bay, tuỳ ý thích mà làm. còn tất cả những thứ qui củ võ lâm, giáo điều môn phái gì gì đó đều chỉ là cái rắm chó thúi đáng vất đi mà thôil" (Hảo, hảo! Nễ thuyết giá thoại, tiện bất thị giả mạo vi thiện đích ngụy quân tử. Đại trượng phu hành sự, ái chẩm dạng tiện chẩm dạng, hành vân lưu thủy, nhậm ý sở chí, thậm chẩm võ lâm qui củ, môn phái giáo điều, toàn đô thị phóng tha ma đích cẩu xú tí!).
73
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
Trong toàn bộ tác phẩm Kim Dung, tôi cho rằng không có đoạn nào làm người đọc cảm thấy thống khoái hơn đoạn đối thoại trên đây, khi nghe câu nói vô cùng khoái ý chân tình của một bậc cao nhân tiền bối của võ lâm, một vị đại tôn sư võ học, mà lại là của phe được xem là chính giáo! Ây vậy mà người đọc vẫn kính mộ PhongThanh Dương như một con thần long phiêu hốt, ngẫu nhiên ghé về trần gian trao một tặng vật cho người hữu duyên rồi biến mất. Để rồi về sau, hình ảnh ông chỉ xuất hiện như một huyền thoại, qua hồi tưởng của hai vị đại tôn sư võ học khác là giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo Nhậm Ngã Hành và phương trượng chùa Thiếu lâm Phương Chứng đại sư. Kim Thánh Thán khi phê bình Tây sương ký của Vương Thực Phủ, nhân đọc đoạn biện bạch của nhân vật nữ tì tên Hồng, ông quá thích thú bèn liên tưởng đến ba mươi ba điều thống khoái trên đời 1 ; tôi cho rằng đoạn đối thoại lý thú này, giữa Phong Thanh Dương và Lệnh Hồ Xung, đáng được đưa thêm vào thành điều thống khoái thứ ba mươi bốn của họ Kim!
Đoạn đối thoại rất trung thực, phản ánh được những đặc điểm rất con người, không hoa hoè, cường điệu. Điểm quyến rũ của tác phẩm Kim Dung vẫn thường nằm ở các chi tiết rất nhỏ đó. Sẽ chán biết ngần nào khi mà các nhân vật ai ai cũng sống, cũng ăn nói, cũng hành động theo một khuôn khổ ước lệ như nhau, nhất là lúc "lỡ1 được tiếng là thuộc danh môn chính phái! Luôn phải cố tạo một cái gì đó khác người thường, khác với đám phàm phu tục tử, phải sống theo cái khuôn vàng thước ngọc của ngàn xưa, mà không bao giờ dám sống thực là mình! Đó là điểm mà Trang tử chế nhạo là " Chỉ thích cái thích của ngưòi mà không tự thích cái thích của mình" 1 2. Cái thực tại người vẫn luôn luôn tồn tại trong những điều bình dị và hết sức đời thường. Ta cũng hiểu lý do vì sao trong truyện Kiều, nhân vật đáng cảm thông nhất và gần gũi với con người nhất vẫn là Thúc Sinh. Không như Kim Trọng và Từ Hải, chỉ là những nhân vật mang tính ước lệ, quá lý tưởng đến mức hầu như không thực. Nhân vật Lệnh Hồ Xung hấp dẫn người đọc trước hết ở chổ sống rất thực và rất con người.
Suốt cuộc đời hành sự của Lệnh Hồ Xung, từ lúc lừa Điền Bá
Quang để cứu Nghi Lâm, bị hàm oan là giết sư đệ, lấy cắp kiếm phổ,
1 Tây Sương Ký, bản dịch Nhượng Tống, chương Khảo hoa, NXB Tân Việt, tr. 312-318
2 Nam hoa kinh, Ngoại thiên. Chương Biền mẫu.
74
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
tình cờ gặp Doanh Doanh, qua hình ảnh Bà Bà, ngoài ngõ trúc thành Lạc dưong, được quần hào hắc đạo nghinh đón trên sông, bỡn cợt với giáo chủ Ngũ độc giáo Lam Phựơng Hoàng, uống rượu tại Ngũ bá cương, cho đến khi sống chung với Doanh Doanh bên suối vắng, rồi rời chùa Thiếu lâm, giúp Hướng vấn Thiên đánh quần hùng hai phe hắc bạch, vô tình cứu Nhậm Ngã Hành, học Hấp tinh đại pháp, ám trợ phái Hằng sơn lột mặt nạ bọn Tung sơn, kéo quần hùng đại náo Thiếu lâm tự, từ chối gia nhập Nhật nguyệt thần giáo v.v... những việc làm của gã dù đúng hay sai đi nữa thì Lệnh Hồ Xung vẫn hiện chân dung là gã lãng tử đa tình sống bạt mạng, sống say mê, sống rất chân thành và chân tình với cái Tâm hoàn toàn trong sáng. Các bậc chân nhân xưa nay đều quí trọng chữ thành 1! Chính vì lẽ đó mà sau này, dù mang tiếng bao tai tiếng hư đốn, bị trục xuất khỏi phái Hoa sơn thì Lệnh Hồ Xung vẫn lọt vào mắt xanh của hai bậc Thái sơn Bắc đẩu trong võ lâm là Phương Chứng đại sư và Xung Hư đạo trưởng. Và càng oái ăm hơn khi Định Nhàn sư thái trước lúc lâm chung lại chọn mặt gởi vàng, uỷ thác cho gã làm chưởng môn phái Hằng sơn toàn là các ni cô!
Chính nhờ bản tính hồn nhiên khoáng đạt, giỏi ứng biến mà môn Độc cô cửu kiếm trong tay Lệnh Hồ Xung còn đạt đến những thành tựu cao hơn cả vị Thái sư thúc tổ Phong Thanh Dương. Ngay cả Nhậm Ngã Hành khi ngồi trong đại lao dưới đáy Tây hồ, cũng không tin nỗi điều đó khi nghe thuật lại việc một đại cao thủ là Nhị trang chúa Hắc Bạch tử bị gã đánh cho liểng xiểng, đến chiêu thứ bốn mươi cũng không phản kích nỗi! Cái bản tính hồn nhiên khoáng đạt đó, một biểu hiện khác của trạng thái vô tâm, là yếu quyết để lĩnh hội kiếm ý trong Độc cô cửu kiếm, có thể có được không nếu gã không phải là một tửu đồ, đệ tử của Lưu Linh? Vị sư mẫu gã cũng nhận định về gã: bừa bãi thành tánh, hời hợt rượu chè (hồ náo nhậm tánh, khinh phù háo tửu). Nhưng cũng chính vị sư mẫu đó lại cực kì thương yêu gã như con ruột vì bà hiểu tấm lòng của gã rất chân thành, cái tâm của gã rất trong sáng.
Không phải ngẫu nhiên mà trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung để cho nhân vật Nhạc Bất Quần - với ngoại hiệu Quân tử kiếm - làm
1 Thành giả, vật chi chung thủy, bất thành vô vật (Thành thực là gốc ngọn của mọi sự. Không chân thành thì không thể có gì thành tựu được cả (Trung dung, chương XXV)
75
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
sư phụ Lệnh Hồ Xung. Kim Dung cố tình muốn làm nổi bật nét tương phản của chữ ngụy và chữ thành giữa hai thầy trò. Một bên che đậy tà tâm thâm độc dưới lớp vỏ cực kì khuôn thước qui củ, một bên cứ hồn nhiên theo ý thích mà hành sự, xét thấy không thẹn với lòng là được. Cuối cùng, khi cái mặt nạ giả dối của vị sư phụ mà gã hằng tôn kính đã rơi xuống để hiện nguyên hình là tên ngụy quân tử vô cùng gian xảo, thì hai thầy trò bị đẩy vào thế phải giao đấu với nhau bằng hai môn kiếm pháp tối cao. Rốt cuộc Độc cô cửu kiếm vẫn chiến thắng Tịch tà kiếm pháp, cũng như chữ Ngụy vẫn luôn luôn phải bị đánh bại bởi chữ Thành!
Trong Tiếu ngạo giang hồ, nói đến Lệnh Hồ Xung mà không nói đến nhóm Đào cốc lục tiên sẽ là điều thiếu sót lớn. Nhưng đó sẽ là nội dung của bài viết khác. Đặt sáu nhân vật hồn nhiên ngây ngô bên cạnh Lệnh Hồ Xung, Kim Dung càng làm tăng thêm vẽ khoái hoạt, bỡn đời của gã. Một tay tửu đồ thuộc nòi lãng tử đa tình như Lệnh Hồ Xung thì có thiết tha gì với cái chức Giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo hay cái tham vọng thống trị giang hồ? Có lẽ các thứ đó đối với gã cũng không lý thú bằng uống một vò rượu ngon, rồi cùng người yêu rong chơi bốn biển và thả hồn theo khúc Tiếu ngạo giang hồ trong tiếng hợp tấu của cầm tiêu!
76
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Giang Nam Tứ Hữu: thảm kịch của tài hoa
Người xưa bảo "danh cương lợi tỏa", danh như dây thừng, lợi như xiềng xích luôn trói buộc con người, khó ai thoát ra ngoài vòng thao túng của nó. Nhất là chữ Lợi, luôn biến cuộc đời thành một bãi chiến trường cạnh tranh khốc liệt. Nhiều kẻ trí thức thuở hàn vi luôn sống một cách rất cao nhã, vậy mà khi rơi vào thế giới của đồng tiền vẫn dễ dàng biến thành một con buôn thượng đẳng. Nhưng kẻ nào có bản lĩnh để không lụy vì lợi thì lại lụy vì danh. Dù con người cho rằng danh cao hơn lợi, Trang Tử vẫn mỉa mai:"Bá Di chết vì danh dưới núi Thú Dương, Đạo Chích chết vì lợi trên gò Đông Lăng. Hai người ấy cách chết chẳng giống, nhưng chỗ tàn sinh hại tính thì như nhau cả (Bả Di tử danh ư Thú Duơng chi hạ. Đạo Chích tử lợi ư Đông Lăng chi thượng. Nhị nhân giả sở tử bất đồng, kỳ ư tàn sinh thương tính quân dã" (Nam Hoa Kinh, Biền Mẫu). Như vậy thì Lợi và Danh đều là hai cái làm lụy người nên tránh.
Những kẻ tài hoa chân chính có chân tài thực học, không lụy vì lợi vì danh thì vẫn phải vướng vào một hệ lụy khác: Đó là lụy vì cái Đẹp. Đem thân chết theo lợi thì bị xem là tiểu nhân, đem thân chết theo danh thì được gọi là quân tử, vậy đem thân để chết vì cái Đẹp, như Lý Bạch ôm trăng, thì gọi là gì? Là tài tử chăng? Trương Trào bảo: "Một chữ tình để duy trì thế giới, một chữ tài để tô điểm càn khôn". Không có tình thì làm thế giới đổ vỡ, không có tài thì khiến càn khôn tẻ nhạt. Sinh ra đời, ai cũng mong muốn có tài, tài năng hoặc tài hoa. Có tài năng mà không tài hoa thì thô lỗ, có tài hoa mà không có tài năng thì khó thành công, chỉ có thể đem cái tài hoa tô điểm cho đời, cho trọn cuộc chơi trong cõi bình sinh.
Nhà thơ Tô Đông Pha từng nói: "Nhân giai dưỡng tử cầu thông minh, ngã vị thông minh ngộ nhất sinh"1 (người ta sinh con, ai cũng mong muốn con mình thông minh, còn ta vì thông minh mà lầm lỡ cả một đời người). Trong lịch sử văn học Trung Quốc, nhà thơ thông minh và tài hoa nhất là Tô Đông Pha cũng chính là nhà thơ chịu nhiều khổ lụy nhất. Nguyễn Du bảo "Chữ tài liền với chữ tai một vần". Phải chăng vì kẻ được phú bẩm tài hoa thường hay trào lộng vạn tượng, và
1 có nhà nghiên cứu cho rằng đây là câu thơ của Tô Tuân
77
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
đó là điều làm phật lòng Tạo hóa? Như vậy thông minh và tài hoa cũng là thứ làm lụy người, cần phải tránh. Nhưng có thể tránh được không, khi Trời đã vận tài hoa vào người như một nghiệp chướng?
Quy luật bù trừ trong Thiên nhiên rất công bình. Đạo vận động như nước, lấy chỗ dư bù vào chỗ thiếu. Cho nên, được Trời phú bẩm cho chút tài hoa, ta cũng chó vội mừng, vì lắm khi đó chính là hiểm họa. Khi cho ta cái gì thì Thiên nhiên sẽ lấy lại của ta một phần tưong ứng, lắm lúc phần bị mất đi nhiều hon cả phần được ban cho.
Trong tất cả các tác phẩm của Kim Dung, thảm kịch của bốn nhân vật tại Cô sơn mai trang có lẽ là thảm kịch não nùng nhất về hệ lụy của hai chữ tài hoa. Ngày Hướng vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung đến tìm Giang Nam tứ hữu ở Cô son mai trang cũng đúng là lúc Định Mệnh gõ cửa đời họ. Bốn vị chủ nhân của Mai trang được Trời phú bẩm cho tài hoa, không ham thi thố, chỉ quy ẩn lánh đời để canh giữ một tội đồ nguy hiểm, thế mà Định Mệnh cũng không chịu buông tha. Âu đó cũng là hệ lụy của bọn tài tử suốt vòm trời kim cổ.
Nếu tiếng tiêu của Khúc Dưong trưởng lão và tiếng đàn của Lưu Chính Phong hòa quyện trong khúc Tiếu ngạo giang hồ trước lúc lâm chung chỉ là đoạn mở đầu cho bản Giao hưởng Định Mệnh cực kỳ bi tráng, thì đoạn kết thúc của bản giao hưởng đó đã diễn ra tại cổng Cô sơn mai trang bằng cảnh thân bại danh liệt của bốn nhân vật tài hoa của Cầm-Kỳ-Thư-Họa. Tiếng đàn của Hoàng Chung Công, nước cờ của Hắc Bạch Tử, ngọn bút của Ngốc Bút Ông, chén rượu của Đan Thanh, bốn món chơi tao nhã của khách phong lưu, đã khiến cho bốn vị chủ của nó phải thân bại danh liệt, cũng chỉ vì mãi mê đi tìm cái Đẹp giữa đời. Nếu Dostoievski cho rằng cái thê giới đảo điên này sẽ được cứu rỗi bởi cái Đẹp, thì cái Đẹp cũng chính là mầm mông của tai ương! vẻ đẹp tuyệt vời của Helène, một vẻ đẹp có thể cứu chuộc được cả ba ngàn thê giới, đã là nguyên nhân cho cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài mười năm dưới chân thành Troie, và đã là nguồn cảm hứng cho nhà thơ thiên tài của Hy Lạp là Homère viết nên trường ca lliade bất hủ. Nhan sắc Dương Quý Phi làm điên đảo cả triều đình Đường Minh Hoàng để rồi kết thúc một cách bi thương bằng dãi lua tại Mã Ngôi, để Bạch Cư Dị viết nên Trường Hận Ca, để Lý Thương Ân viết nên bài thơ Mã Ngôi được ca tụng đến ngàn thu.
78
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Kẻ đi tìm cái Đẹp giữa đời, dẫu đó là kẻ đem tài hoa vào đời để biến trần gian thành một cuộc chơi, thì đó vẫn là kẻ đang tự đóng đinh mình lên cây thập gía đời. Chữ tài hoa sẽ vận vào người tài tử nhiều hệ lụy lạ lùng, đúng như Nguyễn Du đã từng đau đớn thốt lên "Phong vận kỳ oan ngã tự cư" (Những mối oan khiên kỳ lạ do nết phong nhã gây ra, ta tự mang cả vào mình - Độc Tiểu thanh ký). Tiếng đàn Hoàng Chung Công mênh mông thâm diệu, nhưng chưa kịp tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ thì tai họa đã ập tới cổng Mai trang. Chén rượu Thổ phồn của nhân vật hào sảng Đan Thanh vừa mới kịp làm say lòng tri kỷ thì đã chìm mất giữa men đời cay đắng gấp vạn lần. Ngọn bút của Ngốc Bút Ông nằm lăn lóc trước cổng Mai trang như lời cảnh báo cho những ai học đòi thư pháp. Và nước cờ xứng danh quốc thủ của Hắc Bạch Tử vẫn còn đi sau rất xa với nước cờ đời.
"Đàn năm cung réo rắt tính tình đây; cờ đôi nước rập tình xe ngựa đó, thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ, rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà"(Nguyễn Công Trứ). Thú chơi tao nhã của khách phong lưu đẹp biết bao. Đem gieo rắc tài hoa để tô điểm cõi càn khôn bằng tiếng đàn nét bút, mãi mê giữa đời để đi tìm cái Đẹp, mà đâu ngờ lòng si mê cái Đẹp lại đem thảm họa đến kề bên. Trong bốn nhân vật ở Mai trang, Kim Dung đã tỏ ra rất sâu sắc khi để cho cọn người phản bội lại cả nhóm để cầu xin Nhậm Ngã Hành truyền thụ Hấp Tinh đại pháp lại là một nhân vật chơi cờ: nhị trang chúa Hắc Bạch Tử. Trong các môn cầm kỳ thi tửu, thì kẻ chơi cờ luôn là kẻ phải đấu trí, nên có tâm cơ ứng biến và nhiều mưu mẹo hơn cả, khác với cái tâm hồn nhiên của những nhân vật đắm chìm trong đàn, trong sách vở và trong rượu.
Kẻ tham lợi thì cuồng điên vì lợi lộc, kẻ hám danh thì chìm đắm bởi chức danh, bọn tài tử chân thực trong cõi giang hồ khinh thường cả danh lẫn lợi thì lại si mê quên đời vì chính cái Đẹp của Nghệ Thuật. Gặp kiếm sĩ thì tặng gươm, gặp tửu đồ thì mời rượu, đó là lẽ đương nhiên. Cho nên bức tranh Khê trung hành lữ đồ của Phạm Khoan phải dành cho Tứ trang chủ Đan Thanh, chân tích Suất ý thiếp của Trương Húc phải dành cho Tam trang chủ Ngốc Bút Ông, ván cờ Ầu huyết phổ phải dành cho Nhị trang chủ Hắc Bạch Tử, khúc nhạc Quảng Lăng tán của Kê Khang phải dành cho Đại trang chủ Hoàng Chung Công. Hướng vấn Thiên quả là người tâm cơ siêu tuyệt khi đem bốn báu vật đó ra để bài trí cuộc vượt ngục đầy ngoạn mục của
79
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Nhậm Ngã Hành. Tiếng thở dài nhận tội của Hoàng Chung Công trước bốn vị truởng lão Ma giáo nghe thật xót xa: "Hỡi ơi, mê say vật đẹp đến nỗi đánh mất cả tâm chí, đều do lỗi của bọn thuộc hạ đắm chìm nơi cầm Kỳ Thư Họa, để cho người ta nhìn vào điểm yếu" (Ai, ngoạn vật táng chí, đô nhân thuộc hạ nịch vu cầm kỳ thư họa, cấp nhân khuy đáo liễu giá lão đại nhược điểm). Bốn báu vật cầm Kỹ Thư Họa đó, đã khiến cho bọn tài tử bao thê hệ phải ngày đêm mo ước, lại chính là mầm họa sát thân.
Với khách tài hoa thì cõi đời là một trò chơi lớn, một Grand Ịeu theo Héraclite, nhưng đâu phải ai cũng có đủ công lực để đi trọn cuộc chơi. Thích Ca hoàn tất "cuộc chơi" trong cõi Niết Bàn, Lý Bạch tiếp tục "cuộc chơi" bằng cách cuỡi cá kình lên trời Hãn mạn, Khổng Minh bỏ dỡ "cuộc chơi"trên Ngũ trượng nguyên, Nietzsche chấm dứt "cuộc chơi" trong nhà thương điên, Bùi Giáng xóa nhòa mọi "cuộc chơi" trong cảnh giới ngao du thù thắng. Khúc Dương và Lưu Chính Phong gởi gắm "cuộc chơi" trong khúc Tiếu ngạo giang hồ. Giang Nam Tứ hữu trả giá "cuộc chơi" bằng cảnh thân bại danh liệt và cái chết oan uổng của Hoàng Chung Công.
Đức Jésus Christ cảnh báo "Kẻ nào dùng gươm sẽ chết vì gươm", Simome VVeil nói tiếp một câu chua chát "Ọuiconque prend Tépée périra par Tépée. Et quiconque ne prend Tépée pas ou la lâche périra sur le croix" 1 (Kẻ nào dùng gươm sẽ chết vì gươm, và kẻ nào không dùng gươm hoặc buông gươm sẽ chết trên trên cây thập giá)! Kẻ không tài hoa sẽ chết một đời tầm thường đơn điệu, nhưng kẻ tài hoa sẽ chết một cách đau thương, nghĩa đen hoặc nghĩa bóng, có phải thế chăng? 1
1 La Pensateur et La Grâce (Union Générale D'Éditions, Paris, 1948, p.92)
80
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Đoàn Dự: kẻ phụng hiến trong tình yêu
Tục ngữ bảo: "Con gái đôi tai, con trai đôi mắc, nghĩa là trong tình yêu, phái nữ thường vì đôi tai mà trái tim bị chinh phục, còn phái nam thường do đôi mắt mà thần hồn bị đảo điên. Cho nên có người nói rằng: người đàn bà suốt đời chỉ khao khát nghe được câu "Anh yêu em 11 từ người đàn ông mà họ thưong yêu, còn người đàn ông thì ngược lại, suốt đời họ cứ trăn trở mãi với câu hỏi "Ta yêu aiì". Nếu ta đem câu hỏi này để chất vấn Kim Dung, ắt hẵn ông, với nụ cười hóm hỉnh, sẽ đưa ra hình ảnh đáng yêu của vị vương tử đa tình nước Đại Lý: Đoàn Dự.
Những nhân vật chính diện trong tác phẩm Kim Dung, cũng như trong các tác phẩm võ hiệp khác, thường là đối tượng thương yêu của nhiều trái tim kiều nữ, như Lệnh Hồ Xung, Trương Vô Kỵ.... Nhưng trong tình yêu của Đoàn Dự vẫn có chỗ khác biệt: đó là sự đắm say trong tất cả mối tình với những người con gái kiều diễm trên đời, mà chàng ta yêu ngay từ lần đầu gặp gỡ. Từ Chung Linh, rồi pho thạch tượng cho đến Mộc Uyển Thanh... Chỉ đến khi gặp được Vương Ngữ Yên thì tất cả hình ảnh giai nhân trên thê gian này mới thực sự bị xoá nhoà đi như không còn nữa. Tự tòng nhất kiến khanh khanh hậu. Trần thế giai nhân tổng thị vô. (Kể từ một lần gặp được khanh khanh, thì tất cả giai nhân trên đời này coi như không còn nữa).
Vị vương tử đa tình họ Đoàn đi đến đâu đều đắm say tình yêu đến đó, như một thỏi sắt cứ mãi mãi bị hút bởi từ lực của giai nhân. Chàng ta chỉ tôn thờ nhan sắc, chẳng thèm quan hoài chi đến võ công hay quyền lực. Được cầm cương ngựa cho giai nhân là nỗi khát khao suốt đời của chàng ta. Mà hồng nhan thì có khắp trong thiên hạ, cho nên tình yêu của chàng ta cũng bén rễ khắp chốn khắp nơi. Đối với chàng ta thì chỉ có tình yêu là tất cả, như một Xuân Diệu thời trai trẻ "Tôi khờ khạo lắm ngu ngơ quá, chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì". Nhưng trong tình yêu của Xuân Diệu "Yêu là chết trong lòng một íf vẫn ngầm chứa nỗi khát khao được yêu lại, mà không đạt được nên đâm ra khổ đau và chết một ít trong lòng. Còn Đoàn Dự thì hơn thế, chàng ta tìm đến với người đẹp dường như chỉ để chiêm ngưỡng tình yêu dưới quan điểm mỹ học thuần nhiên. Yêu chỉ để mà yêu, yêu chỉ
81
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
để thoả mãn nỗi khát khao tôn thờ vẻ đẹp, yêu như một sự bột phát tuôn trào của những cảm xúc tự nhiên là muốn được phụng sự cho khách má hồng. Nhất là trong tình yêu chàng ta dành cho Vương Ngữ Yên. Suốt đời cứ mê mẫn lẽo đẽo theo nàng ta rong ruỗi khắp giang hồ, như một kẻ tuỳ tòng hờ, chỉ ước mong nàng hạ tứ ban cho một nụ cuời, một ánh mắt nhìn là mãn nguyện. Cái thiết tha say đắm đã được đẩy tới chỗ tận cùng "Ta đâu biết cõi vô tình vô tận, nhưng tình ta ta biết tận vô biên- Thơ Hồ Văn Thắng). Chàng công tử đa tình ấy như muốn tìm một chốn an tâm lập mệnh trong chút hương thừa của quốc sắc thiên hương! Vương Sóc, một nhà văn Trung Quốc chuyên bài xích Kim Dung, đã phê phán rằng nhân vật Đoàn Dự chỉ là hình ảnh lặp lại của anh chàng công tử ẻo lả đa tình Gỉa Bảo Ngọc trong kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần mà thôi. Nói thế không khỏi cho chỗ oan uổng và bất công. Đoàn Dự làm gì uỷ mị đến mức sướt
mướt khóc gió than mây như Giả Bảo Ngọc? Nhưng cả hai đều rất giống nhau ở điểm: xem nhan sắc, hay đúng hơn phái nữ, là biểu trưng cho những gì đẹp đẽ nhất trên cõi đời này. Giả Bảo Ngọc cho rằng cốt cách đàn ông được cấu tạo từ đất, còn cốt cách đàn bà thì
được cấu tạo từ nước. Nước thì mềm mại, nhu nhuyễn, cho nên giai nhân thì mong manh và đáng yêu vô kể!
Khi Đoàn Dự nhìn thấy Du Thản Chi - đang là Bang chủ Cái Bang - chấp nhận quì lạy Đinh Xuân Thu và gọi lão bằng sư phụ để mong lão tha chết cho A Tỷ, một cảnh tượng làm tất cả các nhân vật võ lâm trong đương trường phải phẫn nộ vì xấu hổ cho "thân phận nam nhi", thì chàng ta lại thán phục và ngầm so sánh với mình. Chàng ta cứ ngỡ rằng tấm lòng mình dành cho Vương Ngữ Yên tưởng chừng như đã đạt đến chỗ sơn cùng thủy tận của tình yêu, đã đến mức hoan hỷ tận hiến tất cả thân tâm, nhưng ngẫm ra hãy còn thua xa Du Thản Chi, là kẻ tình nhân đã đạt đến trình độ yêu đương quỷ khốc thần sầu. Và chàng ta thầm khen Du Thản Chi mới đích thị là "bậc hiền thánh trong tình yêu" (tình trung hiền thánh)! Trong tình yêu của Đoàn Dự và Du Thản Chi không còn một chút dấu tích so đo tính toán của lý trí, còn "cái tôi" thì đã hoàn toàn biến mất để hoà tan trong đối tượng thương yêu. Hai ông "tình thánh" kia quả rất xứng đáng là những kẻ si tình vĩ đại nhất của mọi thời đại, suốt dưới vòm trời bốn bể năm châu!
Còn môn Lăng ba vi bộ kỳ tuyệt mà chàng ta học được, khi vô tình lạc vào thạch thất của phái Tiêu Dao sau núi Vô Lượng, cũng nhờ
82
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
đắm say chiêm ngưỡng bức thạch tượng tạc một phụ nữ dung nhan tuyệt đại trông tợ thần tiên. Những kẻ muốn đùa cợt hoặc xúc phạm bức tượng ắt phải chết vì những mũi tên tẩm độc ngầm dấu trong các cơ quan rồi. Chỉ có chàng ta vì mê mẫn bức tượng, xem đó là bậc thần tiên giáng thế, nên mới chịu khó cung kính quì lạy đủ 1000 lạy! Và chính tấm lòng đa tình lãng mạn đó vô tình cứu chàng ta khỏi hoạ sát thân. Kim Dung đã cực tả cái thần trong đôi mắt của thạch tượng1 làm người đọc liên tưởng đến sự quyến rũ kỳ diệu trong nụ cười Mona Lisa của Leonardo da Vinci. Nhan sắc ấy và đôi mắt ấy thì trách sao anh chàng đa tình Đoàn Dự không điên đảo thần hồn, hân hoan quì lạy, gọi bằng "Thần tiên nương tử, Thần tiên tỷ tỷ", và hứa hẹn thời gian sau sẽ quay về đoàn tụ, dù vị "thần tiên nương tử' đó chỉ là pho thạch tượng! Cái tình yêu ấy đã được thăng hoa gần như thoát tục, và còn như muốn đi xa hơn cả cái khái niệm amor platonicus1 2 trong văn học phương Tây. Dưới ánh sáng của tình yêu như thế, thì mọi vật dù vô tri giác cũng sẽ tràn đầy sức sống và được gán cho một linh hồn. Đó cũng là tình yêu mà sau này chàng ta mãi mãi dành cho người con gái diễm kiều thông tuệ Vương Ngữ Yên - một bản sao của pho thạch tượng thần tiên đó.
Ngoài nhan sắc, chàng ta chẳng thiết tha gì với những cái mà thiên hạ sẵn sàng đổ máu để tranh giành nhau. Đường đường là vị hoàng thân quốc thích của nước Đại Lý, chuẩn bị kê thừa ngôi vua, nhưng vì không muốn học võ công, không ham chính trị, nên chàng ta dấn thân phiêu bạt giang hồ, kết bạn với anh hùng hảo hán. Hễ thấy nơi nào có tranh chấp là chen vào can thiệp, bằng lý lẽ của anh đồ
1 Trong đôi mắt như ma màng có ánh sáng long lanh lưu chuyển, Sở dĩ pho tượng này giống hệt như người sống là nhờ đôi nhãn quang linh động... Thần sắc ởtrong đôi mắt khó mà mô tả cho đúng: dương như mừng vui, lại dường như hờn oán; dường như chan chứa tình ý tha thiết sâu xa, lại dường như đau xót ngậm ngùi (Nhãn lý ẩn ẩn hữu quang thái lưu chuyển. Giá thạch tượng sở dĩ tự cực liễu hoạt nhân, chủ nhân đương tạ nhãn quang linh động chi cố... Nhãn quang trung đích thần sắc tiện thị nan dĩ mô tả, tư hỷ, tự vưu, tự thị tình ý thâm chí, hựu tự ảm nhiên thần thương)
2 Platon (427-347 BC), triết gia duy tâm lừng danh thời cổ đại Hy Lạp. Ông không hề sáng tạo hay nói đến thuật ngữ tình yêu mang tên mình, nhưng ông xem khao khát tình dục như là phương tiện để làm nảy nở một tình yêu cao thượng hơn. Vào thời Phục Hưng khoảng năm 1533, Marsilio Ficino - một môn đồ Platon - mới sử dụng thuật ngữ amorplatonicus (tình yêu kiểu Platon) để chỉ tình yêu đôi lứa thiên về tinh thần, hướng về Thượng đế, Trong khoảng thê kỷ XX, từ nay được hiểu là tình yêu gữa những người đồng giới tính!!! Trong bài này, tôi dùng từ amor platonicus theo nghĩa thông thường ban đầu của Marsilio Ficino
83
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
gàn, bất chấp họ có thèm nghe theo mình hay là không. Võ công thì siêu đẳng với tuyệt kỹ Lục mạch thần kiếm độc bá võ lâm, nhưng chàng ta chẳng thèm mơ màng chi cả, nên khi thì thi thố thần diệu tuyệt luân, lúc thì ngơ ngơ ngẩn ngẩn như đứa bé không biết võ công. Chỉ có một môn võ công chuyên dùng để "chạy trốn" mà chàng ta luôn sử dụng thành công, đó là những bước Lăng ba vi bộ. Chàng ta học bộ pháp kỷ tuyệt đó rất dễ dàng bởi vì nó chỉ dùng để tránh đòn mà không phải sát thương một ai..Như vậy mới hợp với tấm lòng đôn hậu của chàng ta: muốn tất cả mọi người vất bỏ hận thù, và sống chan hoà với nhau như anh em. Một anh đồ gàn rong ruỗi giữa cõi giang hồ đầy bất trắc và ân oán thị phi, để rao giảng thuyết "Tứ hải giai huynh đệ 11 của Khổng Tử bằng cái tâm trong sáng hồn nhiên, giống như một Don Quichotte ở phương Đông. Ây vậy mà đôi khi những lời lẽ gàn gàn, tưởng chừng như dở hơi đó, lại cứu vãn được nhiều cục diện căng thẳng sắp đi đến chỗ bất khả vãn hồi, và võ công cũng không thể giải quyết được gì.
Kim Dung để cho Đoàn Dự kết nghĩa anh em với Tiêu Phong, Hư Trúc và mối giao tình của họ, như một dòng nước ngầm chạy suốt bên dưới tác phẩm Thiên long bát bộ, như để nêu lên những mối tư lường thâm huyền cho tư tưởng.
Nếu Tạo hóa đã dùng đại lực lượng, đại ý chí để sáng tạo nên những vưu vật hiếm hoi, những cảnh tượng thiên nhiên hùng vĩ, thì con người phải biết thưởng ngoạn chiêm ngưỡng để khỏi phụ tấm lòng Hóa công, cái mà thơ Lý Hạ gọi là "Nguyên hoá tâm". Cũng vậy, khi con người đã bỏ tâm huyết cả một đời người để sáng tạo nên những công trình trác việt, như một thể cách đáp ứng lại đức Sinh của tạo hóa, thì những kiệt tác đó của con người cũng không thể bị vùi chôn trong quên lãng được. Đỗ Phủ đã từng cảm thán "Văn chương thiên cổ sự, đắc thất thốn tâm tri" ?(Văn chương là chuyện ngàn năm, được hay mất chỉ tấc lòng biết thôi). Nặn óc vắt tim, dẻo gọt gan ruột làm ra sách là để gởi lại cho hậu thế, mà không một ai biết đến, điều đó há chẳng đáng xót xa sao? Nhưng đâu chỉ trong văn chương, mà trong tất cả những công trình nghệ thuật do con người sáng tạo, đều là chuyện đem tấc lòng gởi vào thiên cổ cả, nên con người của vạn đại mai sau 2
2 Thiên địa chi đại đức viết Sinh (Cái đức lớn của Trời Đất là đức Sinh - Kinh Dịch, Hệ từ thượng)
84
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
không có quyền để cho mai một. Do đó, khi Đoàn Dự phát hiện ra bao võ công uyên áo của phái Tiêu Dao còn lưu trong thạch thất núi Vô Lượng, nhưng lại hờ hững bỏ qua không chịu học, (vì ấn tượng mạnh nhất đối với chàng ta là pho thạch tượng chứ không phải các bí cấp võ công), thì Kim Dung phải bố trí cho người anh kết nghĩa của Đoàn Dự là Hư Trúc hưởng được toàn bộ chân truyền c ủa các tuyệt kỹ đó trên cung Linh Thứu. Đó cũng là cách để Hư Trúc, thay mặt anh chàng tam đệ si tình, mà tạ lỗi với cổ nhân!
Nào phải chỉ có những cái hợp nhau mới tìm đến với nhau theo lẽ "Thanh khí ứng cầu ", mà những cái cực đoan cũng hay gặp gỡ nhau. Và chính hai cái thái cực đối nghịch, khi kết hợp lại, mới làm sáng tỏ thêm ý nghĩa đời. Ngạn ngữ phương Tây bảo "Les extrémités se touchent' cũng là ý đó. Một Đoàn Dự không thiết tha chi ngoài nhan sắc, một Tiêu Phong không thích gì ngoài rượu và võ công, hai người tưởng chừng như khác nhau một vực một trời đó, ở chỗ thẳm sâu lại
vô cùng gần gũi nhau trong tâm hồn quãng đại. Kim Dung đã sâu sắc biết bao khi sắp xếp hai người đại diện cho hai cực đoan đó gặp nhau trên Tùng hạc lâu và kết nghĩa anh em. Để khi đối cực bên này đổ vỡ thì đối cực bên kia đi đến chỗ tựu thành, như một sự điều hoà và cứu vãn cho nhau.
Người anh hùng Tiêu Phong lạc bước vào Mê Cung, và đã kết thúc cuộc đời trong bi hận. Mối tình ngậm ngùi đau đớn của ông với A Châu đã vỡ tan cung bậc, thì chút tâm nguyện xem như phó thác lại cho người em kết nghĩa là Doàn Dự, để chàng ta tựu thành những gì ông để dỡ, bằng khối tình si đối với Vương Ngữ Yên. Tấm lòng đó của Đoàn Dự cho dẫu không cứu vãn được, thì cũng an ủi được rất nhiều cho những tình yêu ngang trái. Đoàn Dự sinh ra chỉ để phụng hiến cho tình yêu, và đối với một kẻ đa tình như chàng ta thì có lẽ trong tình yêu, người đàn bà không bao giờ có tuổi và người đàn ông không bao giờ có mối tình đầu!
85
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Đào cốc lục tiên: một sáng tạo độc đáo của
Kim Dung
Cục diện đương trường đang bình thường, bỗng nhiên thấy bốn bóng người thấp thoáng, tiếp theo là một tiếng rú kinh hoàng: một cao thủ võ lâm đã bị xé xác làm bốn mảnhì Cách sát thủ thần tốc và quái đản của nhóm Đào cốc lục tiên quả đã gây trong lòng độc giả một tiếng dội tâm lý đầy ấn tượng. Sáu quái nhân đó xuất hiện trong Tiếu ngạo giang hồ như một sáng tạo vô tiền khoáng hậu của Kim Dung.
Chưa bao giờ và có lẽ không bao giờ trong tiểu thuyết võ hiệp lại xuất hiện sáu nhân vật vô cùng độc đáo như thế. Nhưng nếu chỉ có mỗi một việc sát thủ chớp nhoáng thì nhóm Đào cốc lục tiên cũng không có gì đáng để nói đến. Một Bạch Mi Ưng Vương với cách giết người thần tốc khi đương trường chỉ còn lưu lại các xác chết và dư hưởng của một tiếng rú trầm hùng cách xa đó hàng mấy dặm, hay một Nhậm Ngã Hành bằng tay không, chỉ trong chớp mắt đã phá vỡ áo giáp hộ thân của đối thủ để moi tim có lẽ còn ghê gớm hơn nhiều. Và ngòi bút Kim Dung ắt hẳn thừa sức để tạo nên những pha sát thủ lâm li hấp dẫn hơn, gây những tiếng dội tâm lý ở tầng sâu hơn nữa. Nhưng Đào cốc lục tiên vẫn có cái độc đáo riêng biệt mà ta khó có thể tìm ở bất kì nhân vật nào trong mọi tác phẩm của Kim Dung.
Nếu có ai đó muốn tiến hành một sự phân loại các nhân vật của Kim Dung thì ắt hẳn sẽ vô cùng bối rối trước đám Đào cốc lục tiên này. Họ là nhóm người ngớ ngẩn khù khờ và hồn nhiên vô tâm, võ công cực cao nhưng lại vô cùng nhút nhát. Họ không thuộc về Tà giáo cũng không thuộc về Chính giáo. Không môn phái, không tham vọng, cũng không chịu sự sai sử của bất kì bang hội hay tổ chức nào. Họ tồn tại giữa cõi Tiếu ngạo giang hồ như một sự ngẫu nhiên đầy lý thú! Người đọc cũng không rõ họ từ đâu tới và rong ruỗi giữa giang hồ vì mục đích gì. Có lẽ Kim Dung muốn nhường phần suy luận thú vị này cho người đọc? Thoạt tiên, bọn họ xuất hiện trên sơn đạo núi Hoa sơn như từ trên trời rơi xuống, và Thành Bất Ưu là người vô duyên được sổ đoạn trường chọn mặt để họ cho nếm mùi "tứ quái phân thây*' cực kì rùng rợn, khiến thầy trò phái Hoa sơn kinh tâm động phách phải bỏ núi đào vong. Tiếp đến là sự nhiệt tình ngớ ngẩn của họ trong việc
86
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
chữa bệnh khiến nội thương Lệnh Hồ Xung thêm trầm trọng. Chính vì võ công họ quá cao nên hậu quả càng thêm tệ hại, đẩy gã lãng tử này vào tình trạng sống dỡ chết dỡ. Rồi tiếp theo đó là một loạt những việc làm ngây ngô của họ khiến cho bao sự việc càng rối mù thêm. Nhưng 11 hoạ trung hữu phúc " (trong tai họa vẫn tiềm ẩn sự may mắn), chính việc làm ngớ ngẫn của họ đã khiến cho Lệnh Hồ Xung có cơ duyên tiếp thu và hoá giải được vô số nội lực của các đại cao thủ đương thời. Cái ngây ngô của họ làm ta vừa thích thú vừa bực mình nhưng đôi lúc ngẫm cũng đáng yêu: đó là sự ngây ngô của những "thằng Bờm" trong ca dao Việt Nam!
Dường như Kim Dung vẫn luôn đánh giá cao những nhân vật sống gần với bản năng. Các nhân vật ác độc như Âu Dương Phong, cương trực như Hồng Thất Công, vô tư như Châu Bá Thông là những người sống gần với bản năng và lại là các cao thủ tuyệt đỉnh. Nơi Đào cốc lục tiên, ta tìm thấy lại một Lão ngoan đồng Châu Bá Thông dưới một bình diện khác. Không hận thù, không tranh danh đoạt lợi, cứ ung dung hồn nhiên mà tồn tại. Trong khi Châu Bá Thông có thể sướng điên lên nếu học được thêm một môn võ công mới, thì đối với Đào cốc lục tiên, Tịch tà kiếm phổ hay bất kì cuốn bí cấp kì ảo nào cũng không quan trọng bằng ngồi tranh cãi về những vấn đề tầm phào trên trời dưới đất. Giữa cõi giang hồ đầy dẫy những tranh chấp đẫm máu, họ có lẽ là những người còn sống gần với cái "xích tử chi tâm11 của Mạnh Tử. Thậm chí những lúc nhóm Đào cốc lục tiên thi triển tuyệt nghệ "tứ quái phân thây" thì họ cũng hồn nhiên vô tư như các đứa bé giết con sâu cái kiến mà không hề có một mảy may í thức gì về tội lỗi hay thiện ác. Và khi quần hùng Ma giáo họp nhau bàn tính việc kéo lên chùa Thiếu Lâm cứu Nhậm Doanh Doanh, bọn họ cũng nhảy ra cùng tranh cái chức Minh chủ với quần hùng thì ta hiểu đó là những đứa bé đang hồn nhiên tranh nhau một đồ chơi đẹp mặc dù chưa hoàn toàn hiểu công dụng hay chức năng của đồ chơi đấy!
Nhưng điều khiến người đọc nhớ đến bọn họ nhiều nhất có lẽ là các cuộc tranh luận đầu Ngô, mình Sở. Bọn họ lý luận ban đầu nghe cũng mạch lạc lắm, logic lắm nhưng rốt cuộc thì ngớ ngẩn chẳng ăn nhập đâu vào đâu cả. Nhưng lại rất ưa phát biểu, rất ưa trình bày quan điểm, rất ưa tranh luận, ơ đâu có họ thì lập tức có nổ ra những cuộc tranh cãi tầm phào. Nếu không có ai thèm tranh cãi thì bọn tự quay sang bác bẽ lẫn nhau. Không thể hình dung một nhóm Đào cốc lục
87
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
tiên mà không có những cuộc tranh cãi vô nghĩa, cũng như không thể hình dung phái Thiếu lâm thiếu La hán trận hay phái Võ đương mất đi Thái cực kiếm pháp! Nội dung tranh cãi của họ thường làm người đọc buồn cười bởi tính chất ngớ ngẫn, tầm phào mặc dù cái mạch lý luận của nó trông bề ngoài có vẻ hợp lý lắm. Như tôi đã nói trong một bài viết khác, truyền thống Đông phương vốn không xem trọng lý trí cho lắm nên Kim Dung có cách châm biếm "luận lý học*' Tây phương theo phong cách nhẹ nhàng rất Đông phương.
Không phải ngẫu nhiên mà Kim Dung lại bố trí sáu quái nhân độc đáo này bên cạnh Lệnh Hồ Xung. Một nhóm người như thê ắt hẳn phải hợp gu với một gã tửu đồ không sợ trời sợ đất, xem trần gian là một cuộc chơi đầy ngẫu hứng theo bước chân lãng tử phiêu bồng! Trong Tiếu ngạo giang hồ, có lẽ chỉ có Đào cốc lục tiên và Lệnh Hồ Xung là những người hiếm hoi không quan tâm chi tới Tịch tà kiếm phổ, một cuốn bí cấp then chốt trong truyện đã kéo theo nó biết bao thảm kịch và đã làm biết bao nhân vật võ lâm đổ máu để hòng độc chiếm. Ngay cả bậc cao tăng thế ngoại như Phương Chứng đại sư cũng không khỏi động chút lòng trần tò mò muốn đọc khi nghe Xung Hư đạo trưởng nhắc đến! Trong khi Quì hoa bảo điển hay Tịch tà kiếm phổ, giống như những "bè gỗ lim", những "ao sâu cá mè", đã khiến cho bao đại cao thủ, những "phú ông giang hồ ", lao vào cuộc tranh chấp đẫm máu một cách cuồng điên thì cùng với lãng tử Lệnh Hồ Xung, đám "thằng Bờm" Đào cốc lục tiên ung dung đứng ngoài cuộc mà mĩm cười với những "nấm xô Đó là những cuộc tranh cãi không đầu không đũa. Ta cũng có thể xem đó là sự minh triết tự nhiên. Đào cốc lục tiên đạt được sự minh triết đó nhờ bản tính ngây ngô còn Lệnh Hồ Xung đạt được nhớ tâm hồn khoáng đạt.
Vai trò của sáu nhân vật này đôi lúc tương tự như những thằng hề (fool) trong các bi kịch của Shakespeare. Những nhân vật hề này thường xuất hiện như một bước đệm trước khi các giai đoạn bi kịch đi đến cao trào. Ai đã dọc Shakespeare đều khó lòng quên được những câu nói vừa ngớ ngẫn, vừa đầy minh triết của các nhân vật hề trong King Lear, hay Hamlet. Thỉnh thoảng Đào cốc lục tiên nói được những lời ngớ ngẫn nhưng vô cùng xác đáng, thì người đọc hiểu rằng ấy là tiếng nói của lương tri. Đôi khi sự hồn nhiên của các nhân vật này lại cứu vãn được tình thế bế tắc. Chỉ vì ngớ ngẫn chạy đi tìm một con chuột mà bọn họ phát hiện ra đường hầm bí mật để cứu quần hùng
88
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
Ma giáo thoát khỏi cảnh bị vây khốn trên chùa Thiếu lâm. Và trong đại hội của Ngũ nhạc kíếm phái trên núi Tung sơn, lối tranh biện cù nhầy của họ suýt làm tan vỡ mưu đồ của Tả Lãnh Thiền. Cũng có thể Kim Dung muốn dùng Đào cốc lục tiên như một biểu tượng để
khoáng diễn tư tưởng của Shakespeare:
" It [ life ] is a tale told by an idiot, full of sound and fury, sinifying
nothing
('Macbeth, Act V, Scene V)
(Cuộc đời chỉ là một câu chuyện do một thằng khờ kể lại, tràn ngập âm thanh và cuồng nộ, mà không có một ý nghĩa gì)
Nếu như trong tiểu thuyết võ hiệp cổ điển, sự thật thà đến mức ngây thơ thường bị xem như một khuyết điểm và chỉ có ở những nhân vật phe Tà giáo, thì trái lại trong tác phẩm Kim Dung, nó lại được đánh giá cao. Lão tử vẫn thường ca ngợi sự ngây ngô minh triết của các bậc chân nhân:
Ngã ngu nhơn chi tâm dã tai!
Độn độn hề!
Tục nhơn chiêu chiêu ngã độc hôn hôn Tục nhơn sát sát ngã độc muộn muộn
(Đạo đức kinh Chương XX)
(Ta là người ngu dốt thay!
Ngây ngô vậy!
Người đời ai nấy đều sáng rỡ riêng ta mờ mịt Người đời ai nấy cũng rạch ròi riêng ta lẫn lộn)
Nào biết đâu trong cái ngây ngô ngớ ngẫn của Đào cốc lục tiên lại hàm ẩn nhiều minh triết của Đạo gia và biết đâu đó là một dạng biến tướng, khi nhập thế, của một triết học chỉ thiên về xuất thế?
89
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Du Thản Chi: thảm kịch khúc phượng cầu
lạc điệu
Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt Tôi đui mù cho thỏa dạ yêu em (Phụng hiến - Bùi Giángi
Tôi muốn dùng hai câu thơ thiết tha cháy bỏng đó để làm "hành trang' cùng bạn đọc đi vào tâm hồn của một nhân vật của Kim Dung, nhân vật xứng đáng được gọi là kẻ tình nhân vĩ đại nhất trong mọi nền văn học cổ kim: Du Thản Chi trong Thiên Long Bát Bộ. Hình tượng cực cùng bi thảm của Du Thản Chi đã gây cho người viết nỗi chấn động kinh hoàng từ thuở nhỏ. Cậu học sinh mới bước vào ngưỡng cấp 3 là tôi ngày ấy đã thẫn thờ khép tập sách cuối cùng của Thiên Long Bát Bộ lại với tất cả nỗi hoang mang thơ dại của tuổi học trò. Tiếng Du Thản Chi tuyệt vọng kêu gào tên A Tử giữa cảnh trời chiếu quan ải, với đôi mắt mù lòa đẫm lệ, như đồng vọng mãi trong tâm khảm người đọc, và như muốn réo gọi những ẫn ngữ thương đau nào còn đang mơ hồ chìm khuất giữa nhân gian.
Một thanh niên khỏe mạnh đang lứa tuổi rạo rực thanh xuân, vì muốn trả thù cha, đã tìm cách vượt qua biên giới Hán - Liêu. Hình ảnh người cha tự vẫn trong trận huyết chiến kinh hoàng tại Tụ hiền trang, ắt hẳn đã nung nấu trong hồn y mối phụ thù "bất cộng đái thiên" cháy bỏng. Thuở lâm hành, ắt hẳn hồn y hăng hái lắm và tấc lòng hiếu thảo ấy đã sục sôi biết bao là nhiệt huyết, dù y biết rõ rằng mình tài sức thua kém hẵn Tiêu Phong. Và y đã trà trộn cùng đám người Hán để vượt qua Nhạn môn quan với tâm sự kẻ sang Tần. Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn, Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn. (Gío hắt hiu hề sông Dịch lạnh tê, Tráng sĩ một đi hề chẳng trở về ). Ngọn gió biên thùy ngoài Nhạn môn quan dầu không hắt hiu như trên sông Dịch, nhưng lòng kẻ ra đi ắt hẵn vô cùng khẳng khái, vì y hiểu rõ rằng ra đi là "nhất khứ hề bất phục hoàn" khi đem tài lực mình đối chọi với Tiêu Phong. Y đã tìm cách tiếp cận Tiêu Phong và dùng rắn độc để trả thù. Ngọn roi của Tiêu Phong quật chết con rắn đã dập tắt ngay ước vọng
90
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
trả thù của người con hiếu hạnh ấy. Con linh cẩu đành nhìn con hùng sư bằng đôi mắt bất lực lẫn căm thù. Thất bại lần đầu, chưa nghĩ cho ra phương sách khác, thì y lại gặp phải A Tử và bị vướng ngay vào cái lưới tình vô cùng cay nghiệt. Để rồi từ đây mở đầu cho một trang bi kịch cực kỷ thảm khốc của tình yêu. Em lơ đãng ném hoa vàng giăng lối. Tôi dại khờ khốn quẫn giữa trùng vây. Cô bé tinh quái A Tử đã không ném lưới tình bằng những hoa vàng giăng lối, không giăng lưới tình bằng nụ cười hàm tiếu hay bằng khoé mắt thu ba, mà bằng những trò chơi vô cùng man rợ gần như mất cả tính người. Cô đã đem kẻ tình si kia làm vật giải trí trong những trò tiêu khiển, vì thói nhàn rỗi độc ác của một công nương. Nhưng, than ôi, tâm hồn của những kẻ si tình tự cổ chí kim - từ những người tài trí tuyệt luân cho đến kẻ khờ khạo ngu si -vẫn luôn luôn vô ngần hào hoa trong tinh thể:
Tôi chấp nhận trăm lần trong thổn thức Tôi bàng hoàng hoảng hốt những đêm đêm Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt Tôi đui mù cho thỏa dạ yêu em
(Phụng hiến - Bùi Giáng)
Vâng, tôi xin chấp nhận tất cả. Xác thân tôi đây, linh hồn tôi đây em hãy tha hồ mà đày đọa dày vò, em hãy cứ cột dây vào cổ tôi rồi cho ngựa kéo đi để biến tôi thành con diều người, hãy cứ hủy hoại xác thân tôi bằng những trò chơi oái ăm tàn nhẫn chưa từng có giữa nhân gian, nhưng em hãy để tôi yêu em, hãy để tôi vĩnh viễn đui mù si dại trong máu lệ của tình câm.
Có biết bao con đại bàng kiêu ngạo bay bổng tuyệt vời, ý chí muốn vượt cả mây xanh, không chịu khuất phục trước hàng hàng lớp lớp cung tên, nhưng lại dễ dàng xếp cánh khi vướng phải một sợi tóc cực kì mềm mại! Đó là bi kịch hay là nét đẹp của cuộc đời? Trong truyện ngắn Marka Tsuđra của Maxim Gorki, khi anh chàng Lôikô Zôbar kiêu ngạo, vì bị khuất phục bởi nàng Rađđa xinh đẹp mà đành phải giết cả nàng rồi tự vẫn, để bảo vệ lòng kiêu hãnh của mình, thì thử hỏi đó là sự kiêu ngạo ngu xuẩn hay nét đẹp tâm hồn của khách mày râu? Đáp án cho câu hỏi này có lẽ vẫn mãi còn lơ lững đến ngàn thu.
91
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
LÚC A Tử cho người hầu dùng cái khuôn sắt nung cháy trùm lên đầu Du Thản Chi và hủy hoại khuôn mặt của, thì trong con đau quằn quại xé nát cả thịt da đó, tâm hồn y vẫn hân hoan hướng về cô gái tàn ác như kẻ hành hưong hướng về một đấng Chí Tôn. Trong tâm hồn cuồng điên si dại đó, máu và lệ của mối tình câm đã ngập tràn, như muốn nhận chìm cả mối hờn căm đã từng sôi sục thuở vượt qua Nhạn Môn Quan để trả mối phụ thù.
Có mấy ai lại không động lòng trắc ẩn, thậm chí rùng mình, khi đọc đến đoạn Du Thản Chi, vói xác thân tàn tạ, bò lết lại gần A Tử như một con chó trung thành, chỉ để được nhìn một gót chân hồng của cô vói một tấm lòng hân hoan cảm tạ. Cái dung nhan kiều lệ của A Tử trong trang phục uy nguy của một quận chúa Khất Đan hiện ra trước mặt Du Thản Chi như một bậc thần tiên giáng thế. Chi tiết trên tưởng chừng như vô cùng tàn nhẫn, nhưng nếu chịu khó đọc kinh Hoa Nghiêm, thuật lại cuộc lịch hành chiêm bái của Thiện Tài đồng tử đi cầu Bồ Tát đạo, đến đoạn vị đồng tử kia đến chiêm bái Hưu Xả ưu bà di để vấn đạo, thì chúng ta mói cảm thấy được hết cái thâm hậu trong bút lực của Kim Dung:
"Lúc ấy Hưu Xả ưu-bả-di ngồi toà chơn kim, đội mão hải-tạng- chơn-châu-võng, đeo bửu xuyến chơn kim hơn cõi trời, rũ tóc xanh biếc, đại-ma-ni-bửu trang nghiêm trên đầu, sư-tử-khẩu-ma-ni-bửu làm bông tai, như-ý ma-ni-bửu làm chuỗi ngọc, bửu võng trùm trên thân. Trăm ngàn na-do-tha chúng sanh cúi mình cung kính ..."
Có ai thấy ưu-bà-di này thời tất cả các bệnh khổ đều trừ diệt, lìa phiền não, hết kiến chấp, xô núi chướng ngại, nhập cảnh giới vô ngại thanh tịnh ... Tâm họ rộng lớn đầy đủ thần thông, thân không chướng ngại đến khấp mọi xứ"1
Dời qua một bình diện khác, hãy thử thay hình ảnh Hưu Xả ưu bà di bằng A Tử và để cho Du Thản Chi đứng vào vị trí của Thiện Tài đồng tử, thì chúng ta thấy được gì? Hình ảnh lộng lẫy của quận chúa A Tử trong đôi mắt của Du Thản Chi nào có khác gì hình ảnh tôn nghiêm của Hưu Xả ưu bà di, với pháp môn giải thoát "lưu ly an ổn tràng', trước mắt Thiện Tài đồng tử? Quân hầu thị tỳ vây quanh cung phụng quận chúa có khác gì "Trăm ngàn na-do-tha chúng sanh cúi
1 Kinh Hoa Nghiêm, cuốn 4, bản dịch của thượng tọa Thích Trí Tịnh, Sài Gòn, Phật lịch 2511, tr 149-150
92
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
mình cung kính"? A Tử ưu bà di đang thị hiện kim thân trước đồng tử Du Thản Chi trong cuộc lịch hành chiêm bái giữa Mê Cung huyền ảo của tình yêu. Cái mỵ lực kỳ dị của hồng nhan thừa sức xua tan đi bao não phiền đau khổ. Đây gót sen hồng, đây bàn tay ngà ngọc với những vói đường gân xanh nhỏ li ti, hỡi kẻ si tình hãy hôn đi, hãy chỉ một lần chạm nhẹ môi vào cũng đủ để cảm nhận được vạn đại thiên thu về dồn tụ trong khoảnh khắc. Trong cái giây phút chiêm ngưỡng đắm say đó, ắt hẵn kẻ si tình kia hân hoan vô tả và cảm thấy được "tất cả các bệnh khổ đều trừ diệt, lìa phiền não> hết kiến chấp, xô núi chướng ngại, nhập cảnh giới vô ngại thanh tịnh"! Cái tâm si của con người khi yêu quả có đủ sức mạnh để kiến tạo nên một Thiên Đường lộng lẫy từ cõi Địa Ngục u minh.
Còn gì chua xót hơn khi Du Thản Chi tình nguyện dâng cặp mắt - cái vốn liếng duy nhất còn lại trên đời để y có thể đối mặt được với A Tử - với tâm nguyện cứu A Tử thoát khỏi cảnh mù lòa, dù biết rõ rằng điều đó sẽ khiến bi kịch tình yêu của mình thêm tan hoang đổ vỡ. Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt, tôi đui mù cho thỏa dạ yêu em. Cái đui mù nghĩa bóng trong thơ đã được Du Thản Chi thực hiện theo nghĩa đen bằng tất cả khối si tâm. Lưỡi dao trên cung Linh Thứu khi đặt vào đôi mắt Du Thản Chi đã mở ra chân trời huyền mật trong tâm thức luyến ái của nhân gian!
Hình ảnh A Tử móc mắt ném trả Du Thản Chi, rồi ôm xác Tiêu Phong rơi vào vực thẳm mà đã được Bùi Giáng gọi là: "triệt để mù loà chạy vào sa mạc của tình yêu", thế thì còn ngôn từ nào thiết tha hơn nữa sẽ dành cho hình ảnh Du Thản Chi mù loà và cô đơn, kêu gào tuyệt vọng tên người yêu giữa cảnh trời chiều quan ải1? Ngày vượt Nhạn Môn Quan với hiếu tâm bồng bột, để cuối cùng một mình đứng chết lặng giữa gió chiều với một khối si tâm. Cuồng điên máu lệ tình câm. Bước chân A Tử xa xăm muôn trùng. Bóng chiều qua ải mông lung... Y không biết rằng bóng chiều đang phủ xuống, vì trong hai hốc mắt kia bóng tối đã vĩnh viễn ngập tràn. Y cũng không biết rằng A Tử
1 Trong bản hiệu đính về sau, ông Kim Dung có chuyển đổi một chi tiết, đó là ông để Du Thản chi rơi vào hang thẳm cùng với A Tử và Tiêu Phong. Điều đó khiến tác phẩm bớt đi một chút não nùng cay đắng, như một nén hương thắp để an ủi cho linh hồn của cho kẻ tình nhân vĩ đại nhất này, nhưng vô tình lại làm mất đi phần nào âm hưởng mênh mông của tiếng đoạn trường giữa cõi nhân gian. Tôi xin phép độc giả cho tôi giữ lại hình ảnh đoạn trường trong bản viết ban đầu của Kim Dung
93
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
đã chết. Điều đó có nghĩa là y phải tiếp tục sống đọa đày trong nỗi đợi chờ khắc khoải. Hãy tưởng tượng một kẻ mù loà si dại thất thểu giữa giang hồ để đi tìm một người yêu đã chết, bằng một trái tim say đắm thiết tha! Kim Dung đã xây dựng một hình tượng làm tan nát cả lòng người. Ông không để Du Thản Chi chết ngoài quan ải, ông không muốn vùi chôn Du Thản Chi noi đồng quạnh chốn biên cương, mà muốn mai táng y trong muôn triệu tâm hồn của những tình nhân suốt vòm trời kim cổ. Đẩy khối tình si đến chỗ tận tuyệt của thảm khốc đoạn trường có lẽ khó có ai qua nỗi Kim Dung với hình tượng Du Thản Chi.
Con người sinh ra chỉ để đi tìm lại "một nửa của mình", hay đi gieo một khúc phượng cầu như Tư Mã Tương Như thuở trước. Phượng hề! phượng hề! Qui cố hương. Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng. Con chim phượng rong chơi bốn bể để ngày qui hồi cố quận tìm lại được chim hoàng. Lời ca đó trong cung đàn của con chim phượng Tư Mã đã nhận được hồi ứng từ con chim hoàng Trác Văn Quân, chúng ta cũng đã bao lần gieo khúc phượng cầu? Nếu được ứng họa thì phượng và hoàng sẽ sánh đôi để cùng nhau nhả nhạc cho đời, còn nếu không được ứng họa hay lạc sai cung điệu thì, đối với chúng ta, trong đau thương vẫn có chút ngọt ngào, trong đắng cay vẫn còn niềm thơ mộng. Còn Du Thản Chi?
Nói bất cứ điều gì về Du Thản Chi chúng ta ắt hẳn đều cảm thấy có chút gì tàn nhẫn, vì nỗi khổ đau của y quá lớn, cảnh đoạn trường mà y trải qua quá độ thẳm sâu. Một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết mà sao vẫn có thể làm cho chúng ta quay quắt thương đau đến thế, phải chăng vì hình tượng đó phản ánh được tiếng nói thực của con người trong tình mộng cuồng điên?
94
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Tâm sự Nghi Lâm: giọt lệ giữa trang kinh
Tặng con gái Liêu An Thơm như tình ái của ni cô (Hàn Mặc Tử)
Tôi cảm thấy bâng khuâng và ngại ngùng bao xiết khi cầm bút bàn đến Nghi Lâm, mặc dầu đã có một lần, tôi nhắc đến cô tiểu ni xinh đẹp này trong một bài bàn đến tình yêu trong tác phẩm Kim Dung. Viết về Tiêu Phong hay viết về Tạ Tốn, dẫu thấy đắng cay nhưng cũng không khó. Cuộc đời của các nhân vật anh hùng đó, dẫu là những bi kịch đẫm máu và nước mắt, nhưng ta vẫn còn chịu đựng được và thấy chưa hẳn là quá xa lạ với con người. Ta không anh hùng như họ, nhưng ta vẫn có thể theo họ lặn sâu vào tận đáy của cuộc đời, để cùng nắm tay nhau, tìm chút hơi ấm cảm thông, an ủi trong tấn tuồng bi thảm của nhân sinh cũng như cái thê thiết của kiếp người. Nhưng bàn đến Nghi Lâm, ta thấy như có chút gì e ngại. Ngòi bút ta như sắp chạm đến một cái gì tột cùng cao khiết, ta sợ nó sẽ làm vỡ mảnh linh hồn quá đỗi mong manh.
Mà dường như Kim Dung cũng dành cho cô tiểu ni này rất nhiều ưu ái. Với một chút lòng thiên ái, tôi dám khẳng định rằng không có nhân vật nữ nào của Kim Dung lại được độc giả dành cho nhiều cảm tình như Nghi Lâm. Kể cả hai nhân vật đáng yêu và gây được nhiều ấn tượng khác, là A Châu và Vương Ngữ Yên. Những đọan văn bàn đến cô, hay để người khác nghĩ đến cô, đều long lánh như pha lê, tỏa ngời ánh sáng của tình thương yêu thanh khiết. Tâm hồn cô như một viên ngọc toàn bích, không tì vết. Mà oái oăm thay, cô tiểu ni rực rỡ như thiên thần đó lại là kết quả của một mối tình quái gỡ của một gã đồ tể thô lỗ và một ni cô dở hơi! Tấm lòng Nghi Lâm sáng ngời như thánh nữ, và ta hiểu vì sao Kim Dung lại cố tình hư cấu nên cái xuất thân gần như hạ tiện và kì quặc của cô. Có lẽ Kim Dung cũng sợ cái luật "Tạo hóa đố toàn", nên ông cố đem bụi bặm trần gian phủ lên viên ngọc đó, để tự trấn an lấy chính mình. Nếu để cô tiểu ni đó xuất thân từ một dòng dõi quí phái thanh cao, hoặc từ một nguồn gốc vương quyền, thì có thể ông e ngại cô không còn thuộc về cõi trần tục nữa, mà hình ảnh cô sẽ trở nên bềnh bồng hư ảo, quá xa lạ với con người.
95
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Ông đã để cô xuất gia ngay từ tấm bé, vì tâm hồn đôn hậu đó hướng về cõi Đạo Thiện Chân là hoàn toàn tự nhiên và phù hợp với thiên tính của cô. Nhưng rồi dường như ông lại lo sợ cửa Không mầu nhiệm sẽ dành mất cô tiểu ni thánh thiện đó ra khỏi chốn bụi hồng, nên ông cố tình sắp đặt bố cục câu truyện, để cô phải vướng lụy trần gian. Có lẽ ông muốn cô vẫn mang hình ảnh gần gũi của một con người. Bởi vì cái vưu vật của Tạo hóa đó, với dung nhan diễm kiều và tâm hồn thuần nhiên thanh khiết ngần ấy, nếu không nhuốm bụi trần thì nó chỉ có thể là chân dung của Bồ Tát Quan Âm! Nó sẽ theo mây trắng trôi qua vùng Nam Hải mà đi mất. Âu đó cũng là một cách điều hòa trong sáng tạo. Nhiều người cho rằng truyện tiểu thuyết võ hiệp, rốt cuộc cũng chỉ là những sáng tạo hoang đường không mang tính hiện thực. Họ quên rằng các truyện thần thoại Đông Tây, với các sáng tạo hòan toàn hư đản, lại hiện thực và gần gũi tâm hồn con người, hơn rất nhiều so với các tác phẩm văn học hiện thực thô thiển. Tiếng nói tâm tình của nhân gian có rất nhiều con đường tiếp cận và biểu hiện. Văn học đâu phải chỉ mô tả những gì có thực trong đời mới có thể xem là giá trị về mặt nhân sinh. Câu nói "Bất dĩ từ hại ỹ' (đừng để ngôn từ làm hại ý tưởng) của Mạnh Tử vẫn đồng vọng như một lời nhắc nhở, trong suốt mấy ngàn năm văn học phương Đông.
Lần đầu tiên xuất hiện trong tòa sảnh của Lưu Chính Phong, sự hồn nhiên ngây thơ của Nghi Lâm đã khiến quần hùng thay đổi cái nhìn về gã tửu đồ lãng tử Lệnh Hồ Xung. Và độc giả cũng linh cảm được rằng cô đã bắt đầu vướng vào nỗi khổ lụy của tình yêu, với gã "Lệnh Hồ đại ca" đó. Con chim sơn ca hồn nhiên của phái Hằng Sơn đã bất ngờ bị trúng mũi tên của vị thần tình yêu Cupide. Mũi tên đã xuyên qua tim vị tiểu ni, nhưng lại quá đỗi lặng lẽ vô thanh, nên cô chẳng hề hay biết. Đến khi hay được thì cô đã sầu thương héo hắt đến tiều tuy cả dung nhan! Kim Dung đã tỏ ra nhân đạo và sâu sắc biết bao, khi để cho cô vắng mặt trong lúc thảm cảnh xảy ra trong Lưu phủ: các cao thủ Tung sơn tàn sát toàn gia Lưu Chính Phong để nhằm thực hiện cho được tham vọng cuồng điên của Tả Lãnh Thiền. Nếu như tâm hồn cô xa lìa hẳn nhân thế, như các bậc cao nhân thế ngoại, thì thảm cảnh đó có thể là điều kiện trợ duyên để giúp cô thể hội thêm được tấn tuồng hư huyễn của nhân gian. Nhưng có lẽ trong thâm tâm, Kim Dung muốn cô vẫn còn thuộc về cõi hồng trần, muốn cô không chỉ là khán giả mà còn là diễn viên trên sân khấu cuộc đời, nên ông
96
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
đã cô tình che bớt đi những hình ảnh thê thảm khỏi đôi mắt của cô. Kim Dung không nỡ nhẫn tâm, và chúng ta phải cám ơn Kim Dung nhiều lắm, vì hiểu rằng trái tim nhân hậu và cực kì thanh khiết đó sẽ tổn thương biết mấy, một khi đối diện và nhận chân ra được những âm mưu thâm hiểm cùng những tấn bi kịch khủng khiếp của trần gian.
Kim Dung đã tạo nên một tình huống dỡ khóc dỡ cười, khi để cô tiểu ni đó phải chui vào trong chăn của một gã lãng tử, trong một kĩ viện thành Hành Sơn. Rồi vì Lệnh Hồ Xung, cô chấp nhận phải phạm giới: đi ăn trộm dưa giữa đồng vắng. Một việc làm thuờng có thể xảy ra đối với bất kì ai, nhưng với cô là chuyện tày trời. Lúc hái dưa, cô đã âm thầm khấn nguyện với Bồ Tát để tự minh oan cho hành động của mình, khiến ta vừa buồn cười vừa cảm mến cô biết bao nhiêu. Cho dẫu có theo các đồng môn xuôi ngược giang hồ, dấn mình vào chốn thị phi đi nữa, thì trái tim nhân hậu của cô, như tâm hồn vị thánh Francis, vẫn mãi toả ngời ánh sáng, để làm cho hình ảnh cuộc đời bớt đi vẽ thê lương. Giữa cảnh kiếm đao đẫm máu chốn giang hồ, tiếng tụng kinh và niệm Bồ Tát của cô, như giọt nước cành dương, xoa dịu phần nào nỗi đau của nhân thế. Khi cùng đồng môn theo Lệnh Hồ Xung nỗi trôi giữa giang hồ vì tai nạn của bản phái, thì những ánh mắt quan hoài thầm kín của cô dành cho gã lãng tử đó vô cùng đằm thắm và chan chứa biết bao sự thương yêu của một mối tình câm lặng. Như một hành giả Du già toạ thiền, quên đi ngoai cảnh mà chỉ chú tâm quán tưởng một đối tương duy nhất, thì tiểu sư thái Nghi Lâm dường như suốt đời chỉ "quán tưởng" mỗi một hình ảnh của Lệnh Hồ Xung!
Độc giả thông cảm xiết bao khi biết cô từng đêm vẫn âm thầm tâm sự cùng bà già, mà cô ngỡ là câm điếc, trên núi Hằng Sơn. Đó lại chính là mẹ ruột của cô. Nỗi lòng u hoài đó ắt hẵn cô không dám ngõ cùng Bồ Tát, nhưng cũng không thể chôn dấu mãi trong lòng. Một trong những bi kịch của con người là khi nằm xuống vẫn chưa thể nói được điều mơ ước trong tim, với người mà ta thầm yêu dấu. Khi còn sống, triết gia F.Nietzsche dã yêu say đắm Lizt Cosima, vợ của nhạc sĩ VVagner, trong câm nín và tuyệt vọng đớn đau. Để rồi sau này Cosima mãi mãi là nàng Ariane thần thoại trong những giấc mơ của Nietzsche. Nhưng trước khi rơi vào tình trạng điên loạn, Nietzsche vẫn còn được hạnh phúc khi kịp nói những lời tha thiết "Ariane, ịe t'aime" với người thiếu phụ đó. Kim Dung cũng thâm cảm được rằng "Nhưng cũng lạ mối tình đau khổ ấy, để riêng tây như có chỗ không đành" (thơ Xuân
97
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Diệu ), nên ông phải sáng tạo thêm một bà già câm điếc để cô tâm sự. Rồi ông lại bố trí cho cô được hồn nhiên tâm sự với bà gìa giả là Lệnh Hồ Xung hoá trang. Như một chút an ủi khi cô sắp phải chia tay vĩnh viễn với gã "Lệnh Hồ đại ca" giảo quyệt mồm năm miệng mười mà cô ngày đêm tưởng nhớ.
Nhân vật Nghi Lâm khiến ta liên tưởng đến hai nhận vật khác là Tất Đạt của Herman Hesse trong "Câu chuyện dòng sông"1 và Aleixei Karamazov của Dostoievski trong "Anh em nhà Karamazov". Dostoievsky không muốn một con người thuần nhiên huớng thiện như Aleixei vào tu viện qua sớm, dù anh ta khát khao muốn tìm đến với Chúa, mà ông muốn anh ta phải trải qua "trường đời" trước đã. Cũng như Hesse phải để Tất Đạt lăn lộn với bụi trần, xẻ chia bao nỗi nhục vinh, rồi mới có thể dứt bỏ tất cả, để lắng nghe ra được tiếng nói minh triết của dòng sông. Chưa nhập thế mà đã xuất thế, chưa đi trọn con đường ô trọc của cuộc đời mà đã vội từ bỏ nó để đem mình vào cõi đạo, thì sự từ bỏ đó không thể nào là sự từ bỏ chân chính được. Nên trong cõi thanh tu ấy, Nghi Lâm ắt hẵn phải bao lần đem tâm hồn mình ra làm bãi chiến trường tranh chấp giữa hai tiếng gọi của Đạo và Đời. Cõi Đạo thì thanh tĩnh nhiệm màu, nhưng cõi Đời dẫu đắng cay, vẫn đằm thắm quyến rũ với bao hương sắc của tình yêu.
Trong suốt tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ, đã bao lần Nghi Lâm nhỏ lệ, mà chủ yếu chỉ vì Lệnh Hồ Xung. Sau này, khi cô tiếp chưởng phái Hằng Sơn, ta vẫn hiểu rằng vị tân chưởng môn đó sẽ rất nhiều phen phải tiếp tục khóc thầm. Vì chắc chắn cô chưa thể quên hẵn vị "Chưởng môn sư huynh" đang sống hạnh phúc và tiêu dao giang hồ cùng Nhậm Doanh Doanh, dù đó là điều mà cô nhiều phen thành tâm cầu nguyện cùng Bồ Tát. Ta tin rằng các Bồ Tát trên cao cũng sẽ chứng giám cho tấm lòng thành của cô, và sẽ nhìn vị đệ tử đang vướng luỵ trong cõi "Hồn bướm mơ tiên" kia bằng những tiếng thở dài thông cảm. Mỗi lần đọc đến những đoạn Nghi Lâm với đôi mắt long lanh lệ nhỏ, tôi thường nghĩ đến hai câu thơ của Bùi Giáng:
Anh quì xuống, hai tay bệ vệ Để xin nâng một giọt lệ êm đềm
1 Xem "Câu chuyên dòng sông", bản dịch của Thích Nữ Trí Hải.
98
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
Trong tất cả những sáng tạo của Kim Dung, nếu có gì xứng đáng được với hai câu thơ "bệ vệ1 trên, thì đó chỉ có thể là những giọt lệ của Nghi Lâm, trong đêm vắng, âm thầm rơi trên những trang kinh!
99
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Hư Trúc: nhà sư vướng... mộng
Này Đại Huệ, Bồ, bằng tâm đại bi (mahakaruna), phương tiện thiện xảo (upaya) và vô công dụng hạnh (anabhogacarya), Bồ Tát quán thấy chúng sinh như huyễn mộng, như bóng... Khi dần nhập vào từng địa (bhumi) thù thắng hơn, Bồ Tát đó đạt được Tam muội (Samadhi), hiểu rằng tam giới duy tâm (cittamatra). Tam muội đó được gọi là Như huyễn Tam muội (mayopama-samadhí)).1
Trên đây là đoạn trích dịch từ kinh Lăng Già, một kháng thư thâm áo của Phật giáo Đại thừa. Kinh Lăng Già cho rằng bậc Bồ Tát nào quán sát được thế gian như là huyễn, chúng sinh như là mộng sẽ đạt được Như huyễn Tam muội là trạng thái định cao nhất được liệt kê trong kinh. Có nhiều nhà sư vì mang tài hoa mà vướng lụy, nhưng có một nhà sư không vướng lụy mà lại vướng ...mộng, và vì vướng mộng nên vướng lụy, đó là Hư Trúc trong Thiên Long Bát Bộ.
Nhà văn Trung Quốc là đại sư Tô Mạn Thù đã viết một cuốn sách não nùng Đoạn Hồng Linh Nhạn Ký (Cánh hồng cô lẻ), thuật lại câu chuyện của đời mình. Con người tài hoa mang hai dòng máu Nhật- Hoa đó từ thuở nhỏ đã xuất gia đầu Phật. Sau khi phương trượng qua đời, cảm thấy bơ vơ nên muốn quay về cõi tục, nhưng kẻ xuất thân tu hành không thể chen chân nỗi với cõi đòi ô trọc, mà tiếp tục tu hành cũng không trọn nghiệp, nên suốt bình sinh cứ chìm nỗi giữa biển dâu. Những mong nương bóng thiền môn để bước chân đi trong cõi Như Lai thanh tĩnh, nên cô làm ngơ trước những tiếng lòng tha thiết, đành quay mặt đi với hai người con gái thông tuệ diễm kiều. Nhưng lòng kẻ tài hoa làm sao có thể dùng cõi Như Lai để xóa đi được hình bóng giai nhân vẫn luôn thấp thoáng trong từng trang kinh lời kệ? "Khuya về nhẹ mở tâm kinh, trang nào cũng thấy bóng hình
1 o Mahamati, by deeds of great love (mahakaruna), skillíul means (upaya), and eííortlessness (anabhogacarya), a Bodhisattva revievvs all beings and knovvs that they are like maya, they ressemle shadovvs... As he gradually goes up the higher stages (bhumi), he wi11 realise a State Samadhi where he comes to understand that the triple vvorld is Mind (cittamatra). The Samadhi he attains is called Maya-like (mayopama) (D.T. Suzuki, Studies in the Lankavatara Sutra, Routledge & Kegan Paul Ltd., 1968, p.97)
100
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
của em, mở bờ sinh tử ra xem, em từ tiền kiếp là em bây giờ " (Thơ Hồ Công Khanh). Hẹn nhau từ trong tiền kiếp để bây giờ thị hiện giữa cõi Ta Bà trong từng sát na, gây vương vấn mộng hồn cho kẻ phân vân đứng giữa ngã con đường ngã ba của đời và đạo. Thi sĩ Bùi Giáng chuyển tác phẩm trên sang tiếng Việt thành Nhà sư vương lụy (NXB Văn Học, 2000) bằng ngôn ngữ ngậm ngùi cháy bỏng cả tâm can.
Trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung cũng để cho ni cô Nghi Lâm mang cả một khối u tình vào trong cõi thanh tu. Người nữ tu kiều diễm có tâm hồn như nữ thánh đó đã héo hắt cả dung nhan vì gã "Lệnh Hồ đại ca" mang cốt cách giang hồ lãng tử. Từng giọt lệ vướng lụy của ni cô rơi trên trang kinh trong đêm vắng, làm tê buốt tâm tình của cả nhân gian. Chuông khuya dẫn mối sầu về. Giọt buồn ai để rơi nhòe trang kinh. Chao ơi ỉ Sư nữ đa tình...
Hết nhà sư vướng lụy, rồi đến lượt ni cô vướng lụy khiến người ta hoang mang tự hỏi hương sắc cõi đời có mỵ lực gì hấp dẫn những tâm hồn đang muốn hướng đến tuyệt đích với vô biên, đến nỗi họ đành quay mặt với cõi đạo để chấp nhận nỗi chìm giữa cõi người ta đầy khổ lụy? Cõi thiện, cõi chân không gần bằng cõi mỹ, nên đôi lúc sắc hương đời thường che lấp bóng Như Lai! Tôi đã có lần viết về Giang Nam Tứ Hữu, xem đó là biểu tượng cho thảm họa của tài hoa. Mang tài hoa lánh đời nơi Cô sơn mai trang mà vẫn phải gánh chịu thảm kịch. Nhưng mang một khối tài hoa vào cửa thiền như Tô Mạn Thù vẫn là mang theo khổ não. Cho mình, cho đời và cho lẽ đạo. Đã tài hoa ắt phải đa tình, mà vì đa tình nên thường vướng lụy. Nhà thơ tiền chiến J.Leiba có bốn câu thơ thật ngậm ngùi: "Trần thế đã nhiều duyên nghiệp quá, lệ lòng mong cạn chốn am Không, cửa Thiền một khép trần duyên đứt, quên hết người quen chốn bụi hồng". Ông nói thê chắc để tự dối lòng, và để an ủi cho những kẻ tu hành tài hoa đang đắm chìm trong khổ lụy, vì thử hỏi làm sao có thể thực sự "quên hết người quen chốn bụi hồng" được, khi mà lưới tình bủa rộng khắp cả tam thiên đại thiên thê giới, vây khổn những kẻ đa tình nương náu chốn cửa thiền trong từng trận chiêm bao?
Bất Giới hòa thượng đã làm chuyện ngược đời là vì yêu ni cô mà phải cạo đầu để khoát áo nâu sòng! Sá gì thân náu cửa Không, Cạo đầu bởi chút má hồng ni cô, Tam quy? Ngũ giớiì Nam môỉ Bất Giới hòa thượng tuy thô lỗ như lại đa tình. Nên ông không vướng lụy nhưng lại làm cho người ta vướng lụy.
101
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Có lẽ chỉ có một người hiền lành chân chất, suốt đời chỉ biết kinh kệ rau dưa nhưng lại vướng lụy trong một hoàn cảnh oái ăm, đó là Hư Trúc. Con người chân chất đó không một chút tài hoa, cũng không một chút đa tình lãng mạn, và chắc chắn trái tim đó không hề biết rung cảm trước nhan sắc, cho dẫu đó là thần tiên giáng thế. Người đẹp Vưong Ngữ Yên trước mặt chú cũng không khác gì tượng gỗ. Cõi đời thực không có gì có thể cám dỗ nỗi chú, không phải vì định lực của chú cao mà chỉ vì chú cục mịch ù lì như gỗ đá. Từ bé chú chỉ biết gõ mõ tụng kinh, một lòng hướng về Đức Phật, tai như điếc trước thanh, mắt như mù trước sắc, lòng không bị quấy nhiễu bởi vật chất trần gian, thê thì con người giống như hòn đất đó làm sao vướng lụy được? Tâm hồn chú quả giống như pháp danh Hư Trúc, nghĩa là cây trúc rỗng. Bút lực Kim Dung quả thật thâm hậu khi bô trí câu chuyện để chú phải vướng lụy trong một tình huống cực kỳ oái ăm! Chú bị Thiên Son Đồng Mỗ ép phạm sắc giới với một người đẹp xa lạ trong hầm tối om om. Mơ màng như trong cõi mộng. Cõi đời thực không làm cho chú vướng lụy thì cõi mộng thì sẽ kéo chú ra khỏi thiền môn!
Trong một trường hợp tình cờ, chú cứu được chủ nhân của Linh Thứu cung là Thiên Sơn Đồng Mỗ, và nhằm để tránh sự truy sát của Lý Thu Thủy, cả hai phải chui vào một hầm trữ nước đá trong Hoàng cung Tây Hạ. Hằng ngày, Thiên Sơn Đồng Mỗ lẻn vào vườn ngự uyển, bắt chim về buộc chú ăn để sống. Rồi đến một đêm khuya nọ, Đồng Mỗ lại mang về cho chú một cô gái. Bản năng khao khát sắc dục từ lâu bị chôn vùi dưới lớp tăng bào của cuộc sống tu hành khổ hạnh bỗng nhiên trỗi dậy, dù lúc dầu chỉ mới là cảm giác mơ hồ. Ban ngày thì phải vừa luyện võ nghệ với Thiên Sơn Đồng Mỗ, vừa lo cảnh giác Lý Thu Thủy. Nhưng khuya về lại có một Mông Cô - cô nương trong giấc mộng - kề cận thâu đêm. Cả hai không biết mặt nhau và cứ ngỡ như mình đang sống trong cảnh chiêm bao, vì cứ đêm về là họ lại gặp nhau, như phép màu trong truyện Ngàn Lẽ Một Đêm. Nên họ gọi nhau là Mộng Cô, và Mộng Lang. Tất cả "cõi mộng' đó đều diễn ra dưới sự sắp xếp của cao thủ tuyệt đỉnh Thiên Sơn Đồng Mỗ.
Khi quay về lại chùa Thiếu lâm với thân phận chủ nhân cung Linh Thứu, chú vẫn ngây thơ nghĩ rằng mình cần phải cầu kinh sám hối để có thể gột rửa sạch được "tội lỗi" đã phạm. Nhưng thực ra, trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn, bản năng cơ bản đã được đánh thức. Ngày trước khi phạm sát giới, chú đã kêu khóc ầm ĩ và xem đó
102
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
là chuyện tày trời, nhưng đến khi phạm sắc giới, thì chú lại cứ man mác, bâng khuâng. Và hình ảnh Mộng Cô không ngừng ám ảnh trong tâm trí. Chú tiểu khờ khạo của chùa Thiếu Lâm đã biến thành một kẻ si tình mà chú không hề hay biết, dầu chú đang ở trong cảnh giới "dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng" (Kiều). Giá như chú có đủ trí huệ để " quán sát tất cả chúng sinh đều như huyễn, như mộng" thì rẩt có thể chú đã chứng đắc "Như Huyễn Tam Muội"\ Và chú không hề hiểu rằng cõi đời đang giang tay đón chờ một người sắp sửa rời cổng thiền môn. Vì đó là con đường tất yếu cho những ai không đủ căn co mà lại đi thẳng vào chốn cửa "Không" thanh tĩnh, bỏ qua cửa "Hữu" đầy khổ lụy của trần gian! Khi đi cùng Tiêu Phong để hộ tống vị tam đệ đa tình là Đoàn Dự sang Tây Hạ cầu hôn, có ai ngờ nỗi công chúa Tây Hạ lại là chính cô nương Mộng Cô ngày nào. Cô bày ra ba câu hỏi cho các người cầu hôn để thử tìm lại anh chàng Mộng Lang thuở trước, mà rẩt có thể cô cũng nghĩ chỉ là người trong cõi mộng. Những ai tìm cách trả lời theo kiểu "đao to búa lớn" đều bị loại. Chỉ có Hư Trúc trả lời ba câu hỏi đó một cách dễ dàng. Không phải chú trả lời các câu hỏi, mà chú chỉ buột miệng nói ra những điều cứ ấp ủ mãi trong lòng. Nơi nào đẹp nhất trong đời chú? Là hầm đá lạnh. Người chú yêu mến nhất trong đời? Là chính Mộng Cô. Dung nhan Mộng Cô ra sao? Chú cũng không hề biết. Ba câu trả lời tình cờ đó lại là ba câu mà công chúa Tây Hạ đang mõi mòn mong đợi. Cơ duyên sắp đặt để hai người trong mộng gặp lại nhau, và tân chủ nhân của cung Linh Thứu trở thành phò mã Tây Hạ. Gặp nhau trong mộng, ái ân trong mộng, nhớ nhau trong mộng, tìm gặp nhau cũng trong mộng nốt, thế thì cõi đời còn gì đẹp hơn câu chuyện Mộng Lang với Mộng Cô? Trong các tác phẩm của Kim Dung, chỉ có những con người khù khờ chân chất mới có được tình yêu trọn vẹn, như Hư Trúc với Mộng Cô. Ngay cả anh chàng cục mịch Quách Tĩnh cũng vô tình làm tan nát cõi lòng của Hoa Tranh công chúa khi đến với Hoàng Dung.
Tinh thần văn hóa phương Đông vẫn thường xem cõi đời là giấc mộng. Lý Bạch bảo: "Xử thế nhược đại mộng, hồ lao vi kỳ sìnhì" (chuyện đời như mộng lớn, việc gì phải nhọc lòng?). Đó là cõi-đời- mộng dưới mắt một thi tiên. Kinh Phật có bài lệ "lục như' nổi tiếng: "Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán" (nên quán sát tất cả các pháp hữu vi như giấc mộng, như điều hư huyễn, như bọt nước, như cái bóng, như
103
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
sương rơi, như tia điện chớp) nhằm khai ngộ chúng sinh thấy chân tướng cõi đời là mộng huyễn. Đó là cõi-đời-mộng dưới sự quán chiếu của bậc đại giác. Tô Đông Pha bảo: "Nhân tự thu hồng lai hữu tín, sự như xuân mộng liễu vô ngân " (con người như chim hồng mùa thu bay đến mang theo tin tức, chuyện đời ngắn ngủi như giấc mộng mùa xuân trôi qua mất chẳng để lại dấu vết nào). Đó là cõi-đời-mộngtrong tiếng thở dài minh triết của con người tài hoa khoáng đạt nhưng lại chìm nỗi khổ đau trong hoạn lộ.
Cuộc đời là cõi mộng, nhưng vì chúng ta cứ u mê chấp mộng làm thực nên sinh ra khổ não, vì cái thực đó cũng chỉ là mộng. Nước Đại Yên của dòng dõi Mộ Dung là mộng, nhưng cha con Mộ Dung Bác đều chấp là thực nên Mộ Dung Phục phải đi đến chỗ cuồng điên. Quốc sư Thổ Phồn Cưu Ma Trí suốt một đời bôn tẩu giang hồ để mong đạt được bản lĩnh vô địch, rốt cuộc ngộ được đó là cõi mộng nên mới trở thành một cao tăng xứ Thổ Phồn. Hư Trúc sống trong cõi thực nhưng cho đó là cõi mộng, nên mộng lại biến thành thực!
Không có nhân vật nào của Kim Dung lại có thể gặp những điều may mắn như Hư Trúc. Chú vịt con xấu xí Hư Trúc, trong một phút giây bỗng biến thành con thiên nga lộng lẫy quá bất ngờ, bắt đầu từ chữ Mộng. Kim Dung đã kín đáo khi để cho công chúa Mộng Cô phải luôn che mặt khi xuất hiện, có phải đó là một lời nhắc nhở: trong cái vẹn toàn nhưỹ vẫn có chút bất toàn, hay muốn độc giả hiểu rằng: dẫu cõi mộng đã biến thành cõi thực, nhưng một phần cõi thực đó vẫn còn là mộng đấỵl
104
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Tiểu Chiêu: Nàng Iphigenia của Kim Dung
Phái mày râu thường chê phụ nữ là hẹp hòi, nông cạn: "Đàn ông nông nổi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu". Nhưng l ị ch s ử nhân loại, và ngay trong cuộc sống đời thường, cho chúng ta thấy những khi đại cuộc gặp cơn khốn quẫn hay gia đình gặp cảnh ba đào cần đến sự hy sinh để cứu vãn tình thế bế tắc, thì chính phụ nữ mới thường là người tiên phong tự nguyện. Dường như Thượng Đế đã ban cho họ lòng vị tha nhẫn nhục để hướng đến hy sinh, nếu điều đó đem lại bình yên cho người mà họ yêu thương. Phái nam chúng ta cứ quen thói bốc phét huênh hoang về phận mày râu, mà không bao giờ lường hết được tầm mênh mông trong những sự hy sinh thầm lặng đó.
Nguyễn Du đã vì Thúy Kiều mà đem hết tài hoa để dựng lên một tòa tân thanh lặng lẽ giữa bể dâu. Và mười lăm năm luân lạc của nàng đã đem lại cho đời hằng sa ẩn ngữ. Hơn hai ngàn năm trước, nàng Chiêu Quân Trung Quốc ôm tâm sự hận sầu ngược về phương Bắc để gá nghĩa với Hung Nô, và hơn một ngàn năm sau, công chúa Huyền Trân nước Việt lại âm thầm giọt lệ để xuôi về phương Nam ngàn dặm. Hai phương trời, hai tâm sự và cách biệt nhau hơn cả ngàn năm, nhưng cái thê lương đau xót chỉ là một. Đâu phương cố hương? Nào trời cố quận? Quay đầu nhìn lại chỉ thấy mênh mông mây trắng, và ở chốn xa xôi kia là quê hương vĩnh viễn không thể quay về. Mây nước mịt mùng, ngàn dặm tha hương, kẻ anh hùng còn chết điếng cả ruột gan, huống gì phận đào tơ liễu yếu? Rượu có thể tạm đốt cháy đi nỗi sầu cô lữ, nhưng lấy gì để an ủi khách má hồng?
Thần thoại Hy Lạp kể rằng vua Agamemnon đem đại binh tham gia cuộc viễn chinh đánh thành Troie, đoàn chiến thuyền bị gió bắc đánh dạt vào một bến cảng. Nghe lời một nhà tiên tri, nhà vua buộc lòng phải hiến đứa con gái yêu của mình là Iphigenia cho nữ thần Artemis làm người hầu để cứu vãn tình thế. Thần lại cho gió nổi lên,
đoàn quân lại hân hoan giương buồm thẳng tiến, nàng Iphigenia kiều diễm đành một mình ở lại vùng Aulis xa lạ để làm trinh nữ thờ phụng thần linh. Vì đại cuộc, vâng lại vì đại cuộc (!), phận nữ nhi lại phải hy sinh. Chiến binh các người hay cứ huyên hoang cùng máu lửa nơi chiến trận, và không bao giờ nghĩ đến nỗi se sắt lạnh của lòng ta. Từ
105
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
đây, ngày ngày ta sẽ là nữ tư tê để chăm sóc đền thờ của Nữ Thần bất tử. Được bao người kính trọng, được gần gũi với cõi bất tử, nhưng đó là cõi bất tử không có tình yêu đôi lứa và sẽ cực hình cho người con gái đang sống với những "reo ái tình trong nhịp máu phân vân" (X.Diệu). Cho nên Nguyễn Triệu, Lưu Thần phải bỏ cảnh thần tiên để quay về trần giới. Cõi trần gian bụi bặm không thể sánh bằng chốn Bồng Lai nhưng, giữa cõi tam thiên đại thiên thế giới, đây là nơi duy nhất ta được sống trọn vẹn với bi hoan ly hợp của tình yêu, trong tủi nhục ta tìm thấy vinh quang và trong đau khổ ta tìm ra hạnh phúc.
Cái tâm sự hận sầu đau đớn đó của một trinh nữ của trời xưa Hy Lạp lại hiện ra một lần nữa trong tâm sự của Tiểu Chiêu. Hồn Hy Lạp xưa lại về vây phủ Ỷ Thiên Đồ Long Kỹỉ Nếu có ai hỏi trong tất cả các tác phẩm của Kim Dung, người con gái nào xuất hiện ít nhất nhưng mang tâm sự thê lương nhiều nhất, thì chúng ta có thể trả lời không ngần ngại rằng đó là Tiểu Chiêu. Mẹ nàng - Kim Hoa Bà Bà- là trinh nữ được Minh giáo Ba Tư cử sang Trung Quốc để tìm cho ra bí cấp trấn giáo là Càn Khôn Đại Nã Di Tâm Pháp. Người đàn bà được giang hồ tôn xưng là đệ nhất mỹ nhân đó đã nửa đường vướng lụy, nhiệm vụ lớn chưa thành thì đứa con gái là Tiểu Chiêu đã ra đời. Và như thế là phạm tội chết đối với luật lệ nghiêm khắc của Minh giáo Ba Tư. Đứa con gái xinh đẹp kia vừa lớn lên đã phải thay mẹ nối tiếp nhiệm vụ thiêng liêng, để mong chuộc lỗi lầm (?) cho mẹ; chỉ có thế mới mong tìm được một con đường quay về cố quốc. Nàng phải hóa trang gương mặt xấu xí và vờ lạc giữa vùng hoang mạc để cho vị Quang Minh Tả Sứ của Minh Giáo là DươngTiêu đem về làm người hầu cho cha con ông. Chỉ có thế nàng mới đặt chân vào được Quang Minh đỉnh -vùng thánh địa của Minh Giáo - để âm thầm dò xét chỗ dấu bí cấp. Một cô gái xinh đẹp dòng dõi quyền quý mà phải đóng vai một con hầu để người ta sai khiến mắng chửi nghĩ cũng não lòng lắm thay. Cơ duyên dun dủi cho nàng và Trương Vô Kỵ tìm được bí cấp Càn Khôn Đai Nã Di viết trên một tấm da dê, trong một đường hầm. Nàng phải dùng máu mình thấm vào tấm da dê cho chữ hiện ra và dịch bản tâm pháp đó sang tiếng Trung Quốc để giúp Vô Kỵ, phối hợp với Cửu dưong thần công, luyện thành bản lĩnh vô địch. Người con trai chân chất vô tâm về từ Băng hỏa đảo đó đã gieo trong lòng nàng bao ước mơ thầm kín, sau những tháng ngày chỉ biết chịu tủi nhục vì trách nhiệm và bổn phận. Mang tâm pháp về cô quốc Ba Tư để được tôn vinh là nữ thần
106
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
gìn giữ Lửa Thiêng, hay để tâm pháp lại nơi Trung Thổ? Xưa kia, mẹ đã nửa đường đút gánh, thì giờ đây con cũng xin đứt gánh nửa đường cho trọn nghiệp của chữ yêu. Người con gái đã cúi đầu quy phục tiếng nói của trái tim, và dĩ vãng lại bắt đầu! Quê hưong Ba Tư đành xem như đã ngàn trùng sương khói. Thôi thì ta xin chọn quê hương là đây, là nơi có người mà ta yêu đang sống. Làm thê thiếp không được thì làm người hầu cũng tốt, làm tôi tớ cũng xong, miễn sao được trọn đời gần gũi chàng để sửa túi nâng khăn. Cho dù nước chảy có vô tình, nhưng hoa rơi lại hữu ý, cho nên hoa cứ hân hoan đợi chờ đến ngày nước cảm nhận được lòng hoa.
"Thần tiên gãy cánh đêm xuân, bước lạc sa xuống trần, làm tình nhân đứng giữa trời không khóc mộng không thành... Đường về quê xa lắc lê thê trót nghe theo lời u mê" (Tình khúc thứ nhất-Nguyễn Đình Toàn). Đúng là đường về quê xa lắc lê thê, nhưng không có lời nào khiến ta u mê cả, mà ta chỉ u mê bởi tiếng lòng đang say đắm mà thôi. Làm thần tiên mà chi nếu như người yêu còn ở nơi hạ giới? Tấm lòng đó trong thiên hạ có được bao người, và đã tô diểm thêm cho cõi đời biết bao là hương sắc?
Minh giáo Ba Tư lại đi phái sứ giả tìm người trinh nữ ngày xưa, giờ đây đã là Tỷ sam Long vương, một trong Tứ đại hộ pháp của Minh giáo Trung Quốc. Người con gái phải thay mẹ để chuộc lại lỗi lầm (?) xưa với bản giáo, với quê hương và chính là để giải cứu nhóm Trương Vô Kỵ đang bị đoàn tàu của sứ giả Ba Tư vây khốn giữa đại dương. Nàng quyết tâm hy sinh mối tình đầu vừa chớm nở để theo đoàn sứ giả quay về quê cũ làm thánh nữ của Bái hỏa giáo Ba Tư. Nếu được chết để giải cứu chàng ư? Điều đó quá dễ và hạnh phúc biết ngần nào. Người sẽ vì người yêu mà hân hoan chịu chết, để mộng đầu thành tựu trong kiếp lai sinh. Nếu như có chút ích kỷ thì nàng sẽ cùng Trương Vô Kỵ chống cự quyết liệt đến cùng để đại dương sẽ là nấm mồ cho tất cả. Như vậy là thành toàn tâm nguyện: được chết chung bên cạnh người yêu. Nhưng không, tình chân chính đầu đời luôn khiến con người hướng thượng. Vì sao Thùy Kiều lại sẵn sàng hy sinh trong khi Thúy Vân vẫn hồn nhiên đến mức ù lì vô cảm? Đặt ra câu hỏi là đã tự tìm được lời giải đáp. Cho nên nàng Iphigenia của Kim Dung đã quyết định hy sinh là phải sống để giải cứu bạn tình chung. Sống, nhưng còn thê lương hơn là chết. Bước lên ngôi thánh nữ là bước vào cõi địa ngục của thanh xuân, về lại chính quê hương nhưng
107
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
lại mang nặng nỗi sầu viễn xứ! Quay về cô quốc lại chính là cuộc ra đi biền biệt trong đời. Biển sóng mênh mông có chứng giám được tấm lòng kiều nữ?
Đi là đi mãi phải không em?
Ước nguyện mai sau có vẹn tuyền?
Nước có ngân lời hoài vọng cũ?
Gởi về cây bóng lá sơ nguyên?
(Bùi Giáng)
Vâng, kể từ đây đi là đi mãi. Nàng không được hạnh phúc như A Châu là gục chết trong tay người yêu để hình ảnh trở thành bất tử. Kể từ đây, noi phưong trời Ba Tư xa xôi ấy, suốt đời nàng, lửa sẽ bừng reo trong nghi lễ trang nghiêm, và sẽ có vạn ngàn tín đồ cúi đầu trước nàng để tôn vinh vị nữ thần của Lửa. Thần Lửa cần đến trinh nữ để giữ gìn cho ngọn lửa được thanh khiết đến thiên thu. Lửa muôn kiếp bừng reo, Lửa ngàn đời bùng cháy. Nàng phải đốt cháy cả tuổi xuân say đắm bên ngọn lửa thiêng, trong khi chỉ muốn làm một nữ tỳ thấp hèn để được trọn đời sống một đời bình dị. Ngọn lửa thiêng thanh khiết kia có làm mờ nỗi hình ảnh ngậm ngùi của buổi chia ly trên sông nước? Nước có ngân lời hoài vọng cũ? Hỏi phương nào còn xanh mãi bóng lá sơ nguyên? Thôi thì xin gởi lời ca vào trong mây nước để dư âm còn đồng vọng ngàn đời trên sóng gió trùng khơi. Gió sẽ mang lời ca lên Quang Minh đỉnh để "gởi về cây bóng lá sơ nguyênDẫu nơi đó không có màu nguyên sơ của bóng lá, thì nơi đó màu xanh của thời gian đã ngưng kết trong tâm tưởng. Dường như tiếng hát là lời kinh siêu độ cho những người phụ nữ chết trong sầu hận, cho nên trước khi chết vì lưỡi gươm tàn nhẫn của Lâm Bình Chi, Nhạc Linh San vẫn hát bài Phúc Kiến sơn ca; trước khi dưới đôi tay oan nghiệt của Othello, Desdemona của Shakespeare vẫn cất tiếng hát bài ca thùy liễu. Lời ca thay cho tiếng lòng nên quá đỗi thiết tha:
The poor soul sat sighing by a sycamore tree/
Sing all a green willow;
Her hand on her bossom, her head on her knee.
Sing willow, vv/7/ovv, willow;
The ừesh streams ran by her, and murmudd her moans,
108
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
Sing willow/ willow/ willow;
Her salt tears fell from her and softn/ed the stones;
Sing wĩllow/ wĩllow/ willow (Shakespeare, Othello, Act 4, Scene 3)
(Mảnh linh hồn đau khổ ngồi thở than bên gốc tiêu huyền. Liễu rủ ơi,liễu rủ ơi, ngàn liễu rủ xanh reo. Tay ôm ngực, nàng gục đầu trên gối. Liễu rủ ơi, liễu rủ ơi, liễu rủ xanh reo; Những dòng suối mát chảy bên cạnh nàng, và thì thầm lời than vãn. Liễu rủ ơi, liễu rủ ơi, liễu rủ xanh reo; giòng nước mắt mặn đắng kia đã làm mềm sỏi đá. Liễu rủ ơi, liễu rủ ơi, liễu rủ xanh reo)
Đó chẳng phải là nỗi lòng Tiểu Chiêu đấy ư? Không liễu rủ xanh reo mà là lửa hồng reo rực cháy; không là tử biệt nhưng phải sinh ly. Chia tay để vĩnh viễn đi vào cõi cô đơn giá buốt. Những giọt nước mắt nàng rơi giữa đại dương có làm mềm sỏi đá? Và thử hỏi cái nào mặn hơn: nước đại dương hay nước mắt Tiểu Chiêu?
109
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Huyền nghĩa Vô danh tăng
Trong đời, có lẽ không có gì đáng ghê người bằng hình ảnh ngọ nguậy của con sâu, và không có gì đẹp bằng hình ảnh phất phới bay của con bướm màu sặc sỡ. Nhưng hai con chỉ là một từ trong bản chất. Đó là điều huyền mật nhất giữa trần gian. Sinh tử hoà nhập với Niết bàn, tội lỗi trộn lẫn với thanh cao, giác ngộ ẩn tàng trong vô minh, bóng tối chan hòa cùng ánh sáng, tất cả đều chỉ là một. Chỉ có các bậc chân nhân, như vị vô danh tăng trong Thiên long bát bộ, mới nhận ra và âm thầm thể hiện được huyền nghĩa đó giữa cuộc sống bình nhật đời thường.
Nếu tác phẩm Kim Dung luôn đưa người đọc đến chỗ bất ngờ, và xem đó là một yếu tố hấp dẫn trong truyện, thì có lẽ sự xuất hiện lặng lẽ của vị tăng vô danh trong Tàng Kinh Các là điều bất ngờ nhất trong tất cả mọi sự bất ngờ. Một vị tăng già không tên tuổi, suốt tháng quanh năm chỉ làm một công việc bình dị tầm thường là quét dọn Tàng Kinh Các, lại hiện thân như một vị Bồ Tát giữa trần gian, hoá giải ân cừu giữa hai nhân vật kiêu hùng tuyệt đỉnh của võ lâm: Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Son. Một kẻ lén nhập vào Tàng Kinh Các xem trộm bí kiếp võ công, khổ luyện để mong khôi phục lại nước Đại Yên. Một kẻ ẩn náu trong Thiếu Lâm tự học trộm võ thuật để mong chuyện báo thù. Trong Tàng Kinh Các tưởng chừng như lặng lẽ kia đã ẩn tàng biết bao nhiêu sóng gió. Những cuốn kinh Phật từ bi đầy những điều siêu huyền uẩn áo bỗng nhiên biến thành phương tiện cho tham vọng và cừu hận. Mà dường như chính cõi đời này được sai sử bởi hai động cơ trên, nên mới cứ mãi chảy trôi theo một quĩ đạo vô cùng điên đảo.
Ai đã từng đọc Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung ắt hẵn không thể quên được hình ảnh vị tăng vô danh đó trong Tàng Kinh Các. Chỉ xuất hiện một lần duy nhất, như cô gái áo vàng ở Chung Nam Sơn (Ý Thiên Đồ Long Ký) - nhưng để lại một ấn tượng không thể phai nhoà: điều hoà ân oán thị phi, cứu vãn tình thế đã đi đến chỗ bất khả vãn hồi, đem Phật pháp thâm diệu cảnh tỉnh cho những tâm hồn cuồng điên trong hận cừu và tham vọng.
Kim Dung đã xây dựng nên nhiều nhân vật xuất hiện rất bình thường, mỗi người mỗi vẽ, nhưng lại rất bất ngờ về thân phận. Đó là
110
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
một Mạc Đại tiên sinh, dưới dạng một ông lão quê mùa, ngồi đàn ca và nhận tiền bố thí trong quán nước. Đó là một Xung Hư đạo trưởng trong y phục luộm thuộm rách rưới của một ông lão cưỡi lừa dưới chân núi Võ Đang. Đó là một Phong Thanh Dương nhợt nhạt như người bệnh, bất ngờ hiện ra sau câu nói của Điền Bá Quang, trên đỉnh Hoa sơn. Nhưng đối với các nhân vật đó, thì ít ra Kim Dung cũng chuẩn bị một bối cảnh lót đường, để người đọc đoán ra phần nào thân phận của họ. Đường kiếm tinh ảo của ông lão nhà quê trong quán nước chém đứt miệng bảy chén trà đã để lại tấm "danh thiếp" của vị chưởng môn phái Hành sơn, sau khi ông bỏ ra đi. Tiếng thở dài khinh bỉ kiếm pháp Hoa sơn, khi nhìn Lệnh Hồ Xung giao đấu với Điền Bá Quang, đã giúp người đọc khẳng định được ngay ông lão trông nhợt nhạt như cái thây ma trên đỉnh Hoa sơn đó, chính là Phong Thanh Dương - một cao nhân tuyệt đỉnh về kíếm thuật. Đối với Xung Hư thì Kim Dung chuẩn bị kỹ càng hơn. Trước khi cùng Xung Hư so kiếm dưới chân núi Võ Đang, Kim Dung đã bố trí cho Lệnh Hồ Xung tỉ thí với hai cao thủ của Võ đang trong vai hai đại hán gánh củi gánh rau. Nhưng đó mới chỉ đoạn nhạc dạo, một khúc "khai tấu" cho bản "giao hưởng" tiếp theo với ông lão rách rưới bệnh hoạn cưỡi lừa. Chỉ với một thế kiếm mở đầu trận tỉ thí, ông lão kia đã khiến Lệnh Hồ Xung phải kinh hãi, rồi ông ta tiếp tục vây khốn Lệnh Hồ Xung trong làn kiếm quang dày đặc của Thái cực kiếm pháp, và gã tửu đồ lãng tử kia chỉ có thể chiến thắng nỗi trong một chiêu tối hậu bằng trí thông
minh, bằng lòng quả cảm và bằng tấm chân tình đối với Doanh
Doanh! Tiếp theo đó, trong câu chuyện đàm đạo, ông lão lại ngầm đặt mình ngang với Phương Chứng đại sư và cao hơn cả Nhạc Bất Quần thì người đọc - dầu chưa rõ đó là ai - nhưng cũng đoán được phần nào danh phận cực cao của nhân vật.
Tất cả những nhân vật tuyệt đỉnh đó đều xuất hiện một cách bình dị tầm thường, nhưng ta thấy giữa họ với đời vẫn có một cái gì ngăn cách. Dầu có dấn thân vào chốn phong trần, hoà đồng trong cõi tục, nhưng tâm sự u hoài của Mạc đại tiên sinh trong cùng đàn Tiêu tương dạ vũ vẫn ngậm ngùi xa lánh trần gian. Bức huyền nhai nơi thạch động của Phong Thanh Dương, như một đường kiếm cắt đôi cõi đời với cõi thanh tu ẩn tịch. Nó ngăn cản cả bước chân của Lệnh Hồ
Xung, dù y là người được vị Thái sư thúc tổ kia yêu mến và coi như là bạn vong niên. Một giới tuyến tuy thơ mộng nhưng rạch ròi đến mức
111
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
lạnh lùng. Núi Võ đang tuy gần gũi với bình nguyên của cõi trần tục đấy, nhưng nó vẫn là một tháp ngà của những đạo sĩ phẩm hạnh cao siêu đi tìm cõi vô vi thanh tĩnh. Dù sự xuất hiện của họ có bình dị đến độ nào đi nữa, thì chung quanh thân phận họ vẫn được bao phủ bởi lớp sương mù của huyền thoại và lòng kính ngưỡng của võ lâm.
Chỉ có vị tăng vô danh trong Tàng kinh các kia mới bình dị làm sao, không ầm ĩ, không huyền thoại, không tên tuổi, như tất cả những gì thực sự vĩ đại trên cõi đời này. Gìa yếu hom hem, đôi mắt như mất hẵn thần quang, quanh năm quét rác, lặng lẽ và vô danh đến mức mọi người trong chùa không ai để ý ngay đến cả sự tồn tại của ông. Đó mới chính là cực điểm trong sự tu học theo truyền thống phương Đông. Nhưng những lời thuyết pháp mộc mạc và võ công kỳ diệu của ông đã làm chấn động cả đương trường. Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn phải tạm chết đi dưới chưởng lực của vị vô danh tăng đó, để rồi sau đó họ mới có thể trùng sinh trong giác ngộ. Trí thông minh hơn người của họ đã bị tham vọng và lòng thù hận dẫn đi lạc nẻo. Họ chỉ chăm chăm lén lút rèn luyện võ công trong bảy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm tự để mong nhanh chóng đạt được bản lĩnh hơn đời, mà không biết đến các nguy hiểm chí mạng đang rình rập họ. Họ u mê không nhận ra được Phật pháp vô biên dùng để hoá giải hiểm nguy, ẩn tàng trong các cuốn ngữ lục thâm huyền của các bậc tôn túc cùng cuốn Pháp hoa kinh uẩn áo, mà vị vô danh tăng kia đã âm thầm bỏ công hoá độ. Cùng với cách chết tạm của họ là cái chết thực, cái chết vĩnh viễn của tham vọng hận thù. Đứng trước cái chết, mọi sự đều trở nên phù phiếm bọt bèo. Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn đều hoát nhiên đại ngộ mà qui y cửa Phật, vì nhận ra huyền nghĩa của Phật môn qua vị tăng không tên tuổi, điều mà một kẻ đại trí đại dũng như Đại luân minh vương Cưu Ma trí chỉ nhận ra được, khi bị mất hết võ công. Vị tăng vô danh kia đã đem Phật pháp vô biên để hoá giải tham vọng hận cừu. Đẹp biết bao là hình ảnh những đại đức cao tăng uyên bác của chùa Thiếu lâm, vốn chỉ quen thuộc với hình ảnh những pháp sư đa văn quãng kiến đăng đàn giảng kinh, lại kính cẩn ngồi nghe vị sư già quét rác kia thuyết pháp dưới tàng cây! Một lão tăng ốm yếu gầy gò không danh phận lại bỗng nhiên thị hiện như một nhân vật quảng đại thần thông. Con sâu đột nhiên hoá thân thành con bướm, vì con bướm đang tàng ẩn trong chính con sâu!
112
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Trong Thiền tông có một giai thoại rất lý thú. Ba thiền sư trên đường hành cước, ghé vào một qúan nước nhỏ bên đường. Bà lão bán nước nói: "Trong các vị đây, ai có thần thông thì mới được uống nước". Cả ba thiền sư đều im lặng nhìn nhau. Bà lão bèn nói: "Hãy xem già biểu diễn thần thông đây". Nói xong, bà lão bưng bình trà rót vào từng chén trà! Đó mới chính là thần thông của những tâm hồn giác ngộ. Vị vô danh tăng kia cũng chính là bà lão bán nước.
Thiền tông chia công việc điều phục cái tâm thành mười giai đoạn, qua hình ảnh kẻ chăn trâu- Thập mục ngưu đồ. Giai đoạn thứ 9 là "quay về nguồn cội " (Phản bổn hoàn nguyên), là giai đoạn đạt ngộ, nhưng đó không phải là giai đọan cuối cùng, mà chỉ để chuẩn bị bước sang giai đoạn cuối cùng là "thỏng tay vào chợ" (nhập triền thùy thủ). Điều kỳ diệu của kinh Dịch là nó không chấm dứt bằng quẻ "Ký tế " (việc đã xong) mà bằng quẻ Vị tê (sự chưa thành). Bậc chân nhân giác ngộ sống âm thầm lẫn lộn với cõi đời trong phố thị để thị hiện thần thông, trong những cái rất đỗi tầm thường. Vị vô danh tăng kia cũng chính là người đã "thỏng tay vào chợ".
Con người không bao giờ đủ khôn ngoan và thông tuệ để hiểu được rằng cái phép lạ, mà họ đang mong đợi đó, đang ngập tràn trong cuộc sống bình dị của áo cơm. Nhà thơ Mỹ VValt vvhitman (1819- 1892 ) viết một bài thơ diễn tả những điều mắt thấy tai nghe quanh đời, và đặt nhan đề là "Miracles" (Những phép lạ). Đó cũng tâm hồn của một vị Bồ tát phương Tây, đang sống trong cảnh giới "Bình thường tâm thị đạo" (Tâm bình thường là đạo) của Thiền tông. Bàng uẩn - một cư sĩ Thiền tông - có hai câu thơ lừng danh "Thần thông kiêm diệu dụng, vận thuỷ cập ban sài" (Gánh nước là diệu dụng, chẻ củi là thần thông!).
Tín đồ Phật giáo thường mê muội đi tìm phép lạ mà không nhớ rằng đức Phật đã từng ngăn cấm không cho các môn đồ lấy việc tu tập thần thông làm cứu cánh, vì ngài cho rằng thần thông tự nó chỉ là "sản phẩm phụ" của việc tu học theo chính đạo. Tương truyền đức Phật đi trên bờ sông Hằng, và gặp một đạo sĩ đang tu khổ hạnh ở đó. Ông này tự hào khoe rằng sau hai mươi năm khổ luyện, giờ đây ông ta có thể vượt qua sông Hằng bàng đôi chân trần. Đức Phật mĩm cười, bảo "Này anh bạn, tại sao anh phải mất đến hai mươi năm để làm được một điều mà tôi cũng có thể làm được với 5 xu tiền đò?". Trong kinh Tân ước, khi Chúa Jesus đi trên mặt nước, hay nạt sóng biển, quở quỉ dữ
113
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
thì điều đó, theo tôi, chẳng có gì là phép lạ, mà phép lạ thực sự đã xảy ra khi Chúa Jesus từ chối không chịu hiển thị phép lạ theo lời thách thức của quỉ là biến đá thành bánh mì, và nhảy từ trên núi cao xuống.
Đỉnh cao tư tưởng Kim Dung trong Thiên long bát bộ nằm ở hình ảnh vị vô danh tăng đó. Hình ảnh đó nói lên được nhiều điều huyền ẩn trong cõi đạo Đông phương, mà tư tưởng của triết học trường trại không bao giờ với tới được.Thật kỳ diệu biết mấy, khi người duy nhất đứng ra giảng hoà được mọi tham vọng hận thù, hiện thân như một Bồ Tát giữa đời để cứu vãn được bao điều oan nghiệt trên chốn giang hồ lại là một vị tăng quét rác tầm thường, tầm thường đến nỗi không có được một cái tên!
114
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Cưu Ma Trí: nạn nhân của võ học
Theo truyền thống phương Đông, triết học hay đạo học đều có mục đích chung là đưa con người đến giải thoát, trong đó cầm kỳ thi họa, y đạo hay võ đạo đều có thể là những phương tiện. Nhưng khi con người đã chấp vào các phương tiện như là cứu cánh thì hiểm họa sẽ bắt đầu. Con người sẽ trở thành nô lệ cho chính cái mà mình muốn làm chủ. Đó là trường hợp điển hình của Đại luân Minh vương Cưu Ma Trí.
Trong quá trình tầm đạo hay học hỏi, con người hơn thua nhau ở chỗ đủ tỉnh táo để nhận ra đâu là phương tiện và đâu là cứu cánh. Đánh giá cứu cánh như phương tiện là rơi vào hoang tưởng, còn chấp phương tiện làm cứu cánh là đưa tới trầm vong. Kinh điển Đông phương luôn nhắc nhở đến điều này. "Đắc ngư vong thuyên". Nơm là phương tiện dùng để bắt cá, nhưng khi được cá phải quên nơm. Ngón tay là phương tiện dùng để chỉ mặt trăng, nếu cứ chấp ngón tay làm mặt trăng, ắt sẽ rơi vào chỗ vô minh. Kinh Phật minh họa ý tưởng này bằng một hình ảnh rất sinh động: "dùng bè là để qua sông, khi đã đến bờ bên kia rồi thì nên ung dung bỏ bè để lên bờ đi tiếp, hay là phải cứ hì hục mang cái bè trên lưngì" Câu trả lời tưởng chừng như rất dễ, nhưng để bỏ được cái bè phương tiện thì cần phải là bậc đại trí huệ, và cần phải có cơ duyên.
Cùng với Cưu Ma Trí có thể kể thêm hai nhân vật kiêu hùng nữa là Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn. Nhưng Mộ Dung Bác khổ luyện võ công là để phục quốc, Tiêu Viễn Sơn khổ luyện võ công là để báo thù. Riêng Cưu Ma Trí là người suốt đời cứ rong ruỗi để tìm tòi học hỏi võ thuật, mà người đọc cũng không biết để làm gì, ngoài việc để thỏa mãn tính sính cường háo thắng. Và do đó, ông đã tự mình trở thành nô lệ cho võ học, cũng như nhiều học giả đã tự làm nô lệ cho kiến thức. Bản thân võ học là phương tiện, mà đã là phương tiện thì luôn mang trong tự thân nó những yếu tố bất toàn, thậm chí nguy hiểm vì đó chỉ cái tạm thời để giúp ta tìm đến cái vĩnh cửu. Vị Vô danh tăng trong Tàng kinh các hiện thân như một Bồ Tát dùng Phật pháp vô biên để khai ngộ cho quần hùng, khiến Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn đều tỉnh ngộ mà quy y cửa Phật; nhưng riêng Cưu Ma Trí vẫn u mê cố
115
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
chấp. Nghĩ cũng lạ. Bản thân ông là quốc sư tinh thông Phật pháp, hằng năm vào Tuyết sơn để đăng đàn giảng kinh, khai ngộ cho dân chúng Thổ Phồn, nhưng chính bản thân ông lại không thấu hiểu được diệu lý của Phật pháp. Ngày xưa, Đạt Ma tổ sư muốn dùng võ thuật như phương tiện thì hậu duệ của ngài lại chấp làm cứu cánh, nên bị mê hoặc bởi cái mị lực của võ học mà không hề hay biết. Cái lẽ ra phải đóng vai "khách" lại trở thành "chủ", và sẽ tiếp tục dẫn dắt con người đi sâu vào con đường lầm lạc.
Lần đầu tiên xuất hiện ở chùa Thiên Long nước Đại Lý, vị quốc sư Thổ Phồn quả đã gây cho người đọc một ấn tượng sâu sắc về đảm lược và bản lĩnh, khi một mình dám ngang nhiên đến chùa Thiên Long xin "mượn" kiếm phổ Lục mạch thần kiếm là bảo vật tổ truyền. Cưu Ma Trí từng giao du với Mộ Dung Bác, cả hai đều là những đại hành gia võ học nên cùng trao đổi võ công với nhau rất ý hợp tâm đầu. Thuở sinh tiền, Mộ Dung Bác chỉ ước ao được xem kiếm phổ Lục mạch thần kiếm của chùa Thiên Long. Cưu Ma Trí hứa với bạn sẽ tìm giúp. Khi quay về lại Trung Nguyên thì Cưu Ma Trí nghe tin Mộ Dung Bác đã qua đời, nên ông liền đến chùa Thiên Long xin "mượn" pho kiếm phổ kia đem về đốt trước mộ bạn, để tạ lòng tri kỷ. Nhưng bù lại ông cũng xin tặng cho chùa Thiên Long các bí cấp võ học cực quý của Phật môn. Như một sự trao đổi sòng phẳng. Ngày xưa có người mang kiếm báu, một người bạn muốn mượn nhưng người ấy có việc phải đi, nên hẹn xong việc sẽ đem về cho bạn mượn. Ngày quay về thì bạn đã mất, người đó bèn cổi kiếm treo trên nấm mộ bạn mình. Như một biểu tượng đã hoàn thành lời hứa. Và của một tấm lòng trao tặng một tấm lòng. Thi Phật Vương Duy diễn tả lại ý này trong bài thơ Tống Chu đại nhân nhập Tần (Tiễn Chu đại nhân vào đất Tần) rất gợi cảm "Du nhân Ngũ Lăng khứ, Bảo kiếm trị thiên kim, Phân thủ thoát tương tặng, bình sinh nhất phiến tâm". (Tiễn người đi Ngũ Lăng, Gươm báu giá ngàn vàng, Chia tay xin trao tặng, Bình sinh một tấc lòng). Kể ra vị quốc sư xứ Thổ Phồn kia cũng muốn học theo phong cách của người xưa. Người xưa treo bảo kiếm trước mộ, thì nay ta đốt kiếm phổ trước mộ, đều là cách gởi gắm "bình sinh nhất phiến tâm". Đó cũng là tấm lòng đáng quý trọng của kẻ sĩ trong thiên hạ.
Ý đồ kia có thể chỉ là cái cớ, nhưng việc ông dám "đơn thân độc mã" đến chùa Thiên Long, dầu biết rõ vị phương trượng Khô Vinh đại sư đã luyện thần công đến mức "bán khô bán vinh" thì quả là hùng
116
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
tâm vạn trượng. Như Quan Công "đơn đao phó hội", ngang nhiên một mình khuấy động cả vùng sông nước Giang Đông. Trước khi xuất hiện, danh tiếng của Cưu Ma Trí đã tạo ra áp lực lớn đến nỗi vị đệ nhất cao thủ trong Hoàng tộc nước Đại Lý là hoàng đế Bảo Định đế phải xuống tóc lấy pháp danh là Vô Trần để tăng cường sức chiến đấu cho các cao tăng chùa Thiên Long. Tất cả sáu vị cao tăng, mỗi người học một loại kiếm trong Lục mạch thần kiếm, cùng hợp công để đối phó với Cưu Ma Trí. Khô Vinh đại sư vừa lo bảo vệ Đoàn Dự vừa bắt anh chàng công tử đồ gàn này học thuộc lòng kiếm phổ, và cuối cùng liệu thế không thể vệ được kiếm phổ, Khô Vinh đại sư đành phải thiêu hủy. Một môn võ công tuyệt học trong thiên hạ đành chịu thất truyền trước áp lực của Hỏa diêm đao!
Lần thứ hai, Cưu Ma Trí xuất hiện ở chùaThiếu Lâm, phô triển tuyệt học khiến quần hùng đều kinh hãi. Nguyên trong chùa Thiếu Lâm có quản thúc một vị sư Ân Độ là Ba La Tinh. Vị sư này từ Ân Độ đến chùa Thiếu Lâm lấy cớ là để nghiên cứu Phật học, vì tại Ân Độ "ngoại đạo thịnh hành, Phật giáo suy vi". Nhưng mục đích chính của Ba La Tinh là học lén các tuyệt kỹ của môn phái Thiếu Lâm, là những môn chỉ truyền thụ cho đại sư cấp cao trong bản phái. Khi phát hiện ra điều này, chư tăng chùa Thiếu Lâm buộc Ba La Tinh phải vĩnh viễn ở lại chùa, không cho quay về Ân Độ, vì e ngại các tuyệt kỹ Thiếu Lâm sẽ bị tiết lộ ra ngoài. Phương trượng chùa Thanh Lương ở Ngũ Đài sơn là Phật sơn thượng nhân từ lâu muốn tranh chức phương trượng Thiếu Lâm nên nhân dịp này dẫn sư huynh của Ba La Tinh là Triết La Tinh cùng nhiều cao thủ khác đến gây hấn, đề nghị dùng võ công để xác định ngôi vị. Ngay lúc cục diện đang hồi căng thẳng khi hai bên tranh luận về xuất xứ của võ học, thì bất ngờ Cưu Ma Trí lại xuất hiện, dùng chính tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm để áp đảo quần hùng, khiến cho tất cả các cao tăng Thiếu Lâm đều "tâm táng nhược tử' (chết điếng trong lòng), niềm tự hào về võ học bí truyền đều nguội lạnh. Huyền Từ phương trượng thực sự chán nãn khi thấy Cưu Ma Trí thông thuộc toàn bộ bảy mươi hai tuyệt kỹ bí truyền của bản môn, một kỳ tích mà chư tăng chùa Thiếu Lâm từ cổ chí không ai làm được. Đại sư thấy việc giam giữ Ba La Tinh quả là điều vô lý khi mà tất cả tuyệt học của bản môn không còn gì là "tuyệt" nữa. Ai cũng biết, và ai cũng luyện được, thậm chí còn thành tựu cao hơn cả những người trong bản môn.
117
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Không ai ngờ nỗi rằng tất cả tuyệt kỹ Thiếu Lâm mà Cưu Ma Trí biểu diễn tại chùa Thiếu Lâm chỉ là cái vỏ, một cách "dĩ ngụy loạn chân" (dùng cái giả dối để làm loạn cái chân thực). Những "Niêm hoa chỉ", những "Cà sa phục ma công" hay "Đại Kim cương quyền" ... đều là cái vỏ Thiếu Lâm nấp dưới công phu Tiểu vô tướng công của phái Tiêu Dao. Nhưng Tiểu vô tướng công của Cưu Ma Trí cũng chỉ lớp vỏ hời hạt của công phu này. Trong các tác phẩm của Kim Dung, phái Thiếu Lâm luôn được xem là Thái sơn Bắc đẩu trong võ lâm, võ công đứng đầu thiên hạ. Riêng trong Thiên Long Bát Bộ, võ công phái Tiêu Dao của Đạo gia có vẽ lấn át hẵn võ công của Phật môn, khi Cưu Ma Trí chiếm thượng phong ngay tại cái nôi của võ học Trung Nguyên. Song điều đó, Kim Dung lại lý giải, thông qua vị Vô danh tăng trong Tàng kinh các, là do các cao tăng Thiếu Lâm chưa thấu hiểu cái diệu lý của võ học, nên sự thành tựu cũng chỉ ở mức trung bình, không thể đạt đến cảnh giới "lô hỏa thuần thanh". Trong khi tất cả cao tăng chùa Thiêu Lâm đều tiêu táng hùng tâm trước võ công của Cưu Ma Trí, thì chỉ có Hư Trúc nhận thấy rõ điều trá ngụy, vì y là người có cơ duyên lĩnh hội được toàn bộ chân truyền của phái Tiêu Dao. Trận kịch đấu giữa một chú tiểu vô danh và một vị quốc sư uy trấn quần hùng tại chùa Thiếu Lâm quả là trận đấu hi hữu của võ lâm, mà ưu thê lại nghiêng về Hư Trúc. Như trận đấu giữa tay đệ nhất kiếm pháp đương thời là Côn luân Tam thánh Hà Túc Đạo với chú tiểu Tương Quân Bảo trong Ỷ Thiên Đồ Long Kỹ. "Vànggiả" của Cưu Ma Trí gặp "lửa thiệt' của Hư Trúc tất nhiên sẽ bị lộ tẩy. "Ngụy" gặp "chân" sẽ bị phá vỡ, dù sớm dù muộn. Đó là quy luật ngàn đời.
Phê bình nền học vấn đời Tống, Âu Dương Tu bảo: "Dĩ Phật Lão chi tợ loạn chu Khổng chi thực " (Đem cái tư tưởng từa tựa giống với Phật Lão để làm loạn cái tư tưởng chân thực của Chu Công và Khổng Tử). Đấy là tình hình các học giả đương thời. Cái học chưa đến nơi đến chốn, chuyên nghề vơ đó chộp đây theo kiểu "đạo thính đồ thuyết" (nghe được ngoài đường rồi kể lại trong ngõ)1 để lòe thiên hạ. Những kẻ sơ cơ dễ bị choáng ngợp khi mới tiếp xúc. Nhưng một khi gặp cái học chân truyền thì những thứ vặt vãnh phù phiếm đó sẽ nhanh chóng tan như bọt nước. Đó cũng chính là trường hợp của Cưu Ma Trí, khi vị quốc sư này "dĩ Tiêu Dao chi tợ loạn Thiếu Lâm chi
1 Đạo thính nhi đồ thuyết, đức chi khí dã (Luận ngữ, Dương hóa, XIV) (Nghe ngoài đường rồi đi kể lại trong ngõ, đó là cái đức bỏ đi)
118
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
thực" (đem loại võ công từa tựa giống với phái Tiêu Dao để làm rối loạn võ công chân thực của phái Thiếu Lâm) nhằm lòe bịp quần hùng.
Thay vì luyện tập võ công như một phương tiện để đưa tới giác ngộ, thì oái ăm thay, vị quốc sư kia lại chỉ đam mê tích lũy võ công. Cái lệ khí tích tụ trong người do luyện tập võ học sai đường đã là mầm họa sát thân, lại thêm tính sính cường hiếu thắng do võ học tạo nên thì mối hiểm nguy lại tăng lên gấp bội. Cưu Ma Trí cứ u mê "dĩngụy loạn chân", lại còn nuôi tham vọng luyện thêm Dịch cân kinh thì quả là vô minh quá lắm. Càng ngày lại càng lún sâu vào con đường nô lệ cho võ học. Cũng như Cưu Ma Trí, Chu Bá Thông là người dam mê võ học đến cuồng điên, nhưng Lão Ngoan đồng nhờ có tâm hài nhi nên bị không sa vào con đường của Cưu Ma Trí, và tự nhiên hóa giải được mọi nguy cơ tiềm ẩn. Những thành tựu trong võ học dễ dàng làm mê muội những người tập luyện cũng như kiến thức dễ làm mê muội những học giả hàn lâm.
Cơ duyên dun dủi cho Cưu Ma Trí bị (hay được?) Chu cáp thần công của Đoàn Dự hút toàn bộ nội lực, để trở lại con người bình thường. Cái hư ngụy tích tụ trong tâm và thân bị phá bỏ hoàn toàn khiến Cưu Ma Trí hoát nhiên đại ngộ và mới thực sự trở thành cao tăng nước Thổ Phồn. Võ học cũng như kiến thức, khi phá bỏ được lớp vỏ hư ngụy để trở lại với cái "chân" thì vạn sự sẽ toàn nhiên hiển lộ. Đó phải chăng cũng là chỗ mà thiền sư Bách Trượng bảo: "Tâm địa nhược không/ tuệ nhật tự chiếu" (nếu vùng đất tâm trống như hư không, thì mặt trời trí huệ sẽ tự nhiên chiếu sáng)?
119
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Ghen tuông - "sản phẩm phụ của tình yêu" - trong tác phẩm Kim Dung
Ớt nào là ớt chẳng cay Gái nào là gái chẳng hay ghen chồngỉ
(Ca dao)
Chúng ta đã quá quen với câu ca dao trên. Và đó có lẽ là "bửu bối" mà những người vợ cả ghen thường xuyên dùng để biện minh cho những "lọ dấm chua" mà mình đã đổ ra. Nhưng gẫm cho cùng thì câu ca dao đó vẫn thiếu chút thiếu sót, vì không phải tất cả các loại ớt đều cay. Ớt vẫn có loại không cay, chỉ dùng để làm kiểng và trang trí, còn phụ nữ thì chắc chắn không có ai lại không ghen một khi đã yêu thực sự, dầu người đó có phải là ... chồng mình hay không. Như vậy, ngẫm ra phụ-nữ- khi-yêu còn cay hơn cả ớt! Nhưng Thượng Đê quả thật là đấng Toàn Năng Toàn Trí, và vô cùng thông minh hóm hỉnh, khi để cho những hậu duệ thực sự của A-Đam không thích những thứ ngọt ngào, mà lại thích những món đăng đắng, cay cay. Bởi vậy, đâu có người đàn ông nào lại thích ăn chè hay uống nước ngọt (có lẽ vì nó mau ớn lắm!), mà khắp thiên hạ chỉ toàn thấy loại đàn ông thích cà phê (là thứ đăng đắngl) và rượu (là thứ cay cayl). Cho nên họ yêu phụ nữ và lấy vợ chỉ để tận hưởng những thứ cay nồng!
Sử ký Tư Mã Thiên chép rằng Lữ Hậu, là vợ của Hán Cao tổ Lưu Bang, rất ghen với Thích Cơ. Thuở còn sống, Lưu Bang sủng ái Thích Cơ, và muốn lập con Thích Cơ kế vị. Lữ Hậu, nhờ mưu của Trương Lương, mời bốn ẩn sĩ ở trong núi về làm vây cánh và rốt cuộc Lưu Bang phải lập con của Lữ Hậu lên ngôi thái tử là Hiếu Huệ Đế về sau. Khi Lưu Bang băng hà, Lữ Hậu bèn cho chặt tay chân Thích Cơ, móc mắt, đục thủng tai, cho uống thuốc thành câm và đem bỏ vào nhà tiêu, gọi đó "con người lợn". Hiếu Huệ Đế thấy mẹ làm vậy, bèn khóc mà nói: "Đây không phải việc làm của con ngườil" (Sử ký Tư Mã Thiên, Lữ Hậu bản kỷ). Đó là sự ghen tuông tàn nhẫn khoáng tuyệt cổ kim, làm cánh đàn ông, dù mới chỉ đọc sách thôi, cũng đã đủ để giật mình rợn gáy!
120
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
Có lẽ không ai trong chúng ta lại không nhớ đến cái ghen của Hoạn Thư với Thúy Kiều. Cô tiểu thư họ Hoạn chỉ cần tung ra vài chiêu nhẹ nhàng là đủ khiến cho đôi bên Thúc Sinh và Thúy Kiều chỉ biết "nhìn nhau mà lệ ứa, mỗi ngày một cách xa" (thơ Lưu Trọng Lư). Xưa nay, nhiều người đã lên án cái ghen của Hoạn Thư là cái ghen thâm độc (?), nhưng quên rằng trong thâm tâm, cụ Nguyễn Du vẫn xem trọng Hoạn Thư vô bờ bến, vì cô đã làm được một điều xứng đáng với tấm lòng từ bi của Bồ Tát: đó là cô thực sự tôn trọng tài hoa của Thúy Kiều. "Rằng: tài nên trọng mà tình nên thương' (Kiều, 1900). Tôn trọng tài hoa của tình địch là điều mà phụ nữ cổ kim hiếm ai, nếu không muốn nói là không có ai, làm nỗi. Cái ghen của Hoạn Thư là sự ghen tuông thường tình, nhưng cái ghen đó đã đi chung với cái tâm Bồ Tát siêu tuyệt thượng thừa.
Nhưng đâu phải chỉ con người mới biết ghen. Thần linh, khi đã yêu, cũng ghen tuông không kém. Thần thoại Hy Lạp đã cho ta thấy những trận ghen tuông kinh hoàng của Héra, vợ vương thần Zeus. Trong văn học nhân loại , dường như chỉ có thần tiên trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc không hề ghen tuông, có lẽ chỉ vì một lý do đơn giản là họ không hề biết thế nào là tình yêu thực sự. Mà nơi nào không có tình yêu, nghĩa là không có ghen tuông giận hờn, thì chán lắm, giống như suốt đời ngồi vào bàn nhậu chỉ để ăn chè! Bởi vậy Lưu Thần, Nguyễn Triệu phải vội vã bỏ tiên giới để quay về lại với trần gian. Sống ở tiên giới để làm gì nếu như cứ suốt ngày thơ thẩn với
những tiên nương kiều diễm nhưng chỉ biết đàn ca múa hát, giống như những con búp bê robot xinh đẹp đã được lập trình?
Kim Dung là một trong những tác gia hiếm hoi của phương Đông mô tả tình yêu nhiều sắc thái đến lạ kì. Cho nên cũng hiếm có tác giả nào có thể mô tả cái ghen đa dạng và nhiều màu sắc đến vậy. Tác
phẩm Kim Dung cho ta những ấn tượng sâu sắc về sự ghen tuông. Ghen tuông luôn đi đôi với tình yêu trong những tiếng cười gằn lạnh lẽo, cũng như trong những giọt nước mắt thương đau. Đôi khi nó có mang tính chất ngớ ngẫn như ông lão Bạch Tự Tại , chưởng môn phái Tuyết Sơn, ghen với lão ma đầu Đinh Bất Tứ. Có lẽ khi ghen vì yêu thì người ta dễ dàng biến thành trẻ con, dù ở bất kỳ lứa tuổi và thân phận nào.
Trong Hiệp khách hành, Mai Phương Cô vì giận Thạch Thanh đã phụ rẫy mình, nên bắt cóc con trai của vợ chồng cặp Hắc Bạch song
121
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
kiếm này đem về đày đọa thành đứa trẻ ăn mày cầu bơ cầu bất, cô bắt nó sống thực khổ sở cho đỡ uất hận. Oái ăm hơn nữa, cô đặt tên cho thằng bé là cẩu Tạp Chủng (Chó lộn giống). Bút lực Kim Dung quả rất thâm hậu khi hé mở được cái tâm lý nhỏ nhen và phức tạp của người phụ nữ ghen tuông. Đúng thôi. Ta yêu ngươi tha thiết, điều đó ngươi đã biết, vậy mà ngươi không đến với ta, ruồng rẫy tấm lòng ta, thì dù ngươi có lấy bất kỳ "con mụ đàn bà" (!) nào khác trên cõi đời này, vợ chống người chỉ có thể sinh ra loại "chó lộn giống" mà thôi! Đúng như người ta nói: dưới mắt một người phụ nữ đang ghen thì tất cả người đàn bà nào yêu người mình yêu, bất kể trình độ hay xuất thân, bất kể là thượng lưu trí thức hay kỳ nữ giang hồ, đều là loại người trắc nết hư hỏng, và dĩ nhiên là đáng bỏ đi. Vì ghen với mẹ mà oán hận cả con. Đó cũng là cái ghen rất thường tình của phụ nữ và cũng rất đáng cảm thông.
Ni cô Nghi Lâm yêu Lệnh Hồ Xung tha thiết, yêu đến tiều tụy cả dung nhan, nhưng lại không ghen, bởi vì tâm hồn cô là tâm hồn thánh nữ, và có lẽ cô tiểu ni diễm kiều tuyệt tục đó không .... dám ghen! Trong thâm tâm, cô đã yêu nhưng lại luôn luôn lo sợ mang tội với Bố Tát. Ăn trộm một trái dưa giữa đồng vắng cho Lệnh Hồ Xung mà cô đã xem là chuyện tày trời, huống gì đi ... ăn trộm một trái tim! Thân đã gởi nơi cửa Phật, suốt đời rau dưa kinh kệ, mà tâm hồn lại đi lưu luyến một gã lãng tử giang hồ thì, với cô, đó sẽ là tội đáng bị đày xuống mười tầng A Tỳ địa ngục, vĩnh viễn không thể siêu sinh.
Chả bù với mẹ cô. Bà ta nguyên là một ni cô xinh đẹp, vì cảm động trước tấm chân tình của Bất Giới hòa thượng mà chấp nhận hoàn tục. Như vậy, kể ra tình yêu cũng sâu sắc lắm. Vậy mà chỉ vì thấy Bất Giới hòa thượng bê con đứng ngoài cổng nói chuyện một vài câu gì đó với một cô nương qua đường, là đủ để bà ta đùng đùng "đổ dấm chua" và bỏ đi mất biệt. Bất Giới hòa thượng đành đem gởi Nghi Lâm vào phái Hằng Sơn, bà ta bèn giả câm để vào quét dọn và ngầm chăm sóc Nghi Lâm. Khi bắt được Bất Giới hòa thượng, bà cho treo ông lên cây để cho cả thiên hạ biết được kẻ "bạc tình hiếu sắc nhất thiên hạ"\ Đó là cái ghen vớ vẫn và cùng cực ích kỷ của một ni cô dở hơi khi hoàn tục, và là loại dấm chua nhất trong thiên hạ.
Khang Mẫn là vợ của Mã Đại Nguyên -Phó bang chủ Cái bang, cô luôn tự hào về nhan sắc làm điên đảo khách giang hồ của mình, lại đem lòng ngưỡng mộ bang chủ Tiêu Phong, nhưng Tiêu Phong không
122
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
để ý. Và điều đó đã gây nên tấn thảm kịch cho Tiêu Phong, tấm thảm kịch mấu chốt trong Thiên Long Bát Bộ. Cô sẵn sàng hiến thân cho trưởng lão Cái bang là Bạch Thế Kính và Toàn Quán Thanh để kéo thêm vây cánh nhằm hạ bệ Tiêu Phong. Dầu lúc đó, Tiêu Phong không có người yêu, và không yêu ai ngoài ruợu, như vậy không có ai để cô ghen, nhưng với phụ nữ hiếu thắng và độc đoán như Khang Mẫn thì trong thâm tâm cô vẫn đang ngấm ngầm ghen mà cô không hề hay biết. Thuở còn bé, nhà nghèo, ngày Tết cô không có áo hoa; thấy người hàng xóm có áo hoa xinh đẹp, cô lén lấy trộm về, không phải để mặc, mà để xé nát ra. Cô không có áo hoa thì có nghĩa là không được ai có cả. Cô đã thầm yêu Tiêu Phong, nhưng cô không chiếm được trái tim Tiêu Phong thì có nghĩa là không một ai có quyền chiếm lấy trái tim đó cả. Cô đang ngấm ngầm ghen với người phụ nữ nào đó sẽ đến với Tiêu Phong, vì điều đó có nghĩa là, dưới mắt Tiêu Phong, người phụ nữ đó xứng đáng hơn cô. Cho nên, khi bị trọng thương sắp chết, cô vẫn lồng lộn ghen tuông với A Châu, dù biết rằng A châu đã chết. Biết Tiêu Phong đang nóng lòng muốn biết thủ phạm gây ra tấn thảm kịch cho gia đình ông tại Nhạn môn quan năm nào, cô vờ bảo Tiêu Phong cô sẽ tiết lộ tên người đó, với điều kiện Tiêu Phong phải ôm cô vào lòng trước khi chết. Đó là cái ghen của một phụ nữ biết mình xinh đẹp nên hiếu thắng và tàn nhẫn. Nhưng tân nguyện chỉ xin được một vòng tay ôm của người mình yêu trước khi chết ngẫm ra cũng đáng thương.
A Châu là cô gái thông minh và hiếu hạnh. Cô dùng cái chết để giải tỏa mối oan cừu, do ngộ nhận, giữa Tiêu Phong và Đoàn Chính Thuần. Thê nhưng dầu đã qua đời, cô vẫn bị ghen bởi chính người em ruột cô là A Tử, người mà cô gởi gắm cho Tiêu Phong trước khi nhắm mắt. Cô bé tinh quái A Tử do yêu người anh rễ Tiêu Phong một cách tuyệt vọng, nên đâm ra ghen cả với người chị đã mất. Khi sống, cô bé ngang ngược và tai ác này không thể thỏa mãn ước mong, thì tại Nhạn môn quan cô đã được toại nguyện là cùng vùi thây với Tiêu Phong nơi vực thẳm. Sinh vi đồng thất thân, tử vi đồng huyệt trần (Sống thì cùng ở một nhà, chết đi nấm mộ xin là nơi chung - thơ Bạch Cư Dị). Tình yêu đã đắm say cho nên cái ghen cũng nghiệt ngã, bởi vậy cô không thể không ghen với người chị ruột A Châu. Đó là cái ghen vừa mãnh liệt lại vừa trẻ con.
123
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Hai cao thủ tuyệt đỉnh phái Tiêu Dao là Thiên Son Đồng Lão và Lý Thu Thủy vì cùng yêu Vô Nhai Tử, kẻ tranh sư huynh người giành sư đệ, mà đánh ghen với nhau từ thuở thanh xuân cho đến lúc gần đất xa trời, chỉ vì muốn khẳng định rằng trong trái tim của vị chưởng môn kia chỉ có hình bóng của mình thôi. Trận huyết đấu cuối cùng giữa hai bà già ở cái tuổi xấp xỉ một trăm, khi mà Vô Nhai Tử đã chết, quả vừa buồn cười vừa cảm động. Lúc sắp mất người nào cùng lập mưu để được chết sau, xem như đó là cách chiến thắng tình địch trong trận đấu kéo dài suốt cả thê kỷ! Khi cả hai phát hiện ra người trong bức tranh của Vô Nhai Tử là vị sư muội xinh đẹp của mình, họ vừa mừng vì đó không phải là tình địch của mình, nhưng lại đau xót vì đó không phải là mình. Đúng là gừng càng già càng cay, người càng già càng ghen. Đó là con ghen "thế kỷ"!
Đao Bạch Phụng là vưong phi của Đoàn Chính Thuần vì ghen và hận thói lăng nhăng của chồng nên đã không ngần ngại hiến thân cho một kẻ ăn xin mình tình cờ gặp trong đêm tối tại sân chùa Thiên Long. Cung phi của một vưong gia với tấm thân nghìn vàng và dung nhan xinh đẹp, chỉ vì ghen tuông lại đi hiến thân cho một tên ăn mày ghẻ lở nho nhớp nhất trên đời. Vì ghen tuông thành oán hận, vì oán giận đâm mù quáng. Rõ đúng đàn bà dễ sa ngã nhất là lúc họ hận chồng. Đó là chi tiết cường điệu quá mức, nhưng lại là một cách trả thù kỳ quái vì ghen tuông, mà chỉ Kim Dung mới nghĩ ra.
Đã yêu thì phải ghen. Tất nhiên. Có lẽ bà E-Va là người phụ nữ duy nhất trên đời không biết ghen vì bà là "đại lý độc quyền" của A- Đam và không có đối thủ để cạnh tranh! Yêu. Ghen. Hận. uất. Ghét. Thương. Oán. Lệ. Thù. Tất cả những từ quen thuộc và thậm chí sáo mòn đó góp phần tạo nên sự đa dạng đến kỳ diệu của tình yêu. Do đó, cái ghen, "sản phẩm phụ của tình yêu", cũng biến hóa thiên hình vạn trạng. Như tâm lý phực tạp và cực kỳ mâu thuẫn của phụ nữ! Môn chiêm tinh học làm gì có nếu như không có môn Thiên văn học? Hai chữ "ghen tuông" làm gì tồn tại trong tự điển sống của những phụ nữ không biết đến tình yêu? Tại hạ xin kính cẩn đặt câu hỏi cùng tất cả bạn đọc: "Tâm sự ghen tuông của những phụ nữ trong thiên hạ đáng thương hay đáng giận" ì
124
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Mộ Dung Phục: Con rồng chưa điểm nhãn
Người chưa tới mà huyền thoại đã tới trước, thân chưa xuất hiện mà danh đã làm chấn động giang hồ, tưởng không có ai bằng được Mộ Dung Phục. "Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung" là câu truyền tụng trong giói võ lâm. Kiều Phong ở phương Bắc, Cô Tô Mộ Dung ở phương Nam trở thành biểu tượng võ công và hào khí cho tất cả hào sĩ giang hồ. Kể ra Kim Dung đã dày công xây dựng bối cảnh xuất hiện của Mộ Dung Phục, theo thủ pháp mà La Quán Trung đã bài trí cho sự xuất hiện của Khổng Minh trong Tam quốc chí. Trước khi Khổng Minh xuất hiện, người đọc phải cùng Lưu Bị gặp những người bạn hoặc người thân của Khổng Minh, để qua đó dần dần hình dung ra con người Khổng Minh. Những nhân vật như Từ Thứ, Thủy Kính tiên, Thôi Châu Bình, Gia Cát Quân ... đều là những bậc thềm giúp người đọc tuần tự bước lên những tầng cao hơn nữa để đối diện với chân dung của vị quân sư tương lai nhà Hậu Hán.
Mộ Dung Phục cũng thế. Sự xuất hiện của Mộ Dung Phục còn hấp dẫn và lôi cuốn hơn cả sự xuất hiện của Lệnh Hồ Xung trong Tiếu ngạo giang hồ. Nếu trước khi xuất hiện, Lệnh Hồ Xung chỉ có mặt trong những câu chuyện kể, qua lời các sư đệ đồng môn và cô tiểu ni Nghi Lâm xinh đẹp, thì sự hiện diện thấp thoáng trong những lời đồn đại, trong những giai thoại được truyền tụng khắp võ lâm đã khiến Mộ Dung Phục giống như con thần long chỉ thấy đầu mà không thấy đuôi. Thủ pháp "gậy ông đập lưng ông" (dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân ) đã gieo hoang mang khắp giang hồ. Thoạt đầu, nhà sư Tuệ Chân vượt đường xa vạn dặm đến nước Đại Lý để báo tin Huyền Bi đại sư, trên đường từ Thiếu Lâm đến Đại Lý, bị đánh chết tại chùa Thân Giới vì chính tuyệt kỹ Đại Vi Đà Chửcùa mình. Rồi Hoàng My đại sư kể lại câu chuyện bản thân mình hồi trai trẻ bị một cậu bé đánh bại cũng bởi chính tuyệt kỹ Kim cương chỉ của mình. Kế đó, Kim toán bàn Thôi BáchTuyền kể chuyện mình bị một cặp nam nữ trung nỉên dùng con toán đánh ngay vào những huyệt đạo trong cơ thể, khiến tay cao thủ của phái Phục Ngưu này phải mai danh ẩn tích, đổi tên là Hoắc tiên sinh làm kẻ hầu hạ chuyên lo chuyện tạp dịch trong cung điện Đại Lý, nhằm tránh hoạ sát thân. Lạc thị tam hùng đất Hà Bắc chuyên dùng phi trùy thì chết về phi trùy. Chương Hư đạo nhân thường thi hành thủ
125
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
đoạn chặt chân tay của địch nhân để hành hạ, thì cuối cùng lại chết vì chính thủ đoạn trên. Những cái chết bí ẩn của các tay cao thủ bởi chính tuyệt kỹ của mình đã phủ trùm lên võ lâm một bầu không khí khủng bố, và dòng họ Mộ Dung được thêu dệt như những nhân vật thần thông quảng đại vì thấu triệt được tất cả những tuyệt học trong thiên hạ.
Ngay cả nhân vật lỗi lạc nhất Thiên Long Bát Bộ là Tiêu Phong cũng xuất hiện trước Mộ Dung Phục. Tại rừng trúc, nơi đông đảo quần hùng tụ hội để quyết định số phận của Tiêu Phong, thì Mộ Dung Phục cũng chỉ xuất hiện qua những người liên quan như Vương Ngữ Yên, Bao Bất Đồng, tỳ nữ A Châu và qua lời kể của Tiêu Phong về Phong Bá Ác. Dung nhan tuyệt tục của Vương Ngữ Yên, võ công của Bao Bất Đồng, phong cách của Phong Bá Ác, trí tuệ của A Châu đều là những chất liệu nền để làm sáng thêm vầng hào quang của Mộ Dung Phục, khiến bạn đọc lại càng thêm náo nức đón chờ con người tài hoa tuấn nhã của vùng sông nước Giang Nam.
Họ Mộ Dung ở Cô Tô thuộc dòng dõi nước Đại Yên. Đến đời Tống thì nước Đại Yên không còn nữa. Và giấc mơ phục quốc đã trở thành một nỗi ám ảnh của hậu duệ đời sau. Mộ Dung Bác đặt tên con là Phục, với ý đồ muốn con mình sẽ phục quốc xưng vương, khôi phục lại cơ nghiệp tổ tông. Ông muốn khuấy động can qua giữa hai nước Trung Quốc và Khiết Đan để Đại Yên thừa cơ quật khởi. Chỉ vì tham vọng chính trị đó mà Mộ Dung Bác đã dựng lên vụ huyết án tại Nhạn môn quan, đẩy cặp phu phụ Tiêu Viễn Sơn vào chỗ chết và khởi đầu cho cuộc đời đầy bi kịch của Tiêu Phong. Ngay từ bé, Mộ Dung Phục đã phải mang nặng trách nhiệm khôi phục nước Đại Yên. Một cậu bé phong tư ngọc lập, cốt cách thanh kỹ nhưng không có được tuổi thơ, mà phải gánh cây thập tự quá nặng nề trên vai vì những ảo vọng của cha ông, quả là điều đáng ân hận trong nhân gian. Để rồi đến khi lớn lên, y lại bị hút vào vòng xoáy của cơn lốc phục quốc mà không cách nào thoát ra được. Sứ mệnh chính trị nặng nề đã khiến y phải ngoảnh mặt đi trước tình yêu của Vương Ngọc Yến. Trong trái tim của y, giấc mộng đế vương đã choán sạch chỗ, nên tình yêu không còn chỗ đứng. Trong cuộc xung đột giữa "tư tình" và "đại nghiệp", chiến thắng nghiêng hẵn về hai chữ "đại nghiệp". Bạn đọc có thể thầm tiếc và thầm trách vì sao Mộ Dung Phục lại hững hờ vô tâm với người con gái dung nhan tuyệt tục như Vương Ngữ Yên, nhưng dù sao
126
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
đó cũng là phong cách thường tình của những người muốn dựng nên nghiệp bá ở phương Đông. Người phương Đông thường cho rằng người đàn bà đẹp luôn luôn là chướng ngại cho khách anh hùng trên đường dựng nên nghiệp lớn. "Nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản". Tình cảm quyến luyến của người con gái dễ làm chí khí anh hùng sút giảm. Vừa là một vị vua đa tình lại vừa là một thiên tài quân sự thì cổ kim họa chăng chỉ có Napoléon, và trong văn học họa chăng chỉ có Từ Hải! Đó là những người mà "khí" không những không bị "đoản" bởi "tình trường" của nhi nữ, mà còn xem "tình trường" đó là chất men kích thích để dựng nên đại nghiệp. Điều hòa được "hồng nhan" và "đại nghiệp", dung hợp được "thiên hạ" với "mỹ nhân", đó mới đích thực là bản sắc tài hoa của kẻ anh hùng. Nếu Napoléon có thể viết thư tình giữa chiến trường máu lửa, thì người anh hùng đất Việt Đông dù cùng Thúy Kiều "nửa năm hương lửa đang nồng", vẫn có thể "trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương", để rồi ra đi xây dựng một cơ đồ "triều đình riêng một góc trời" đáp tạ lòng tri kỷ.
Kim Dung đã dày công tô vẽ nên hình ảnh một con rồng võ lâm Cô Tô Mộ Dung Phục nhưng lại không "điểm nhãn" để con rồng ấy bay lên cõi trời cao, mà để nó từng bước, như con giun đất, lún sâu vào vũng bùn của ảo vọng hão huyền. Hình ảnh thiểu não của Mộ Dung Phục xuôi Bắc ngược Nam, lao tâm khổ tứ, dùng mọi thủ đoạn để mưu đồ phục quốc ngẫm cũng đáng thương. Người đọc càng hồi hộp chờ đợi nhân vật Mộ Dung Phục xuất hiện bao nhiêu thì càng thất vọng bấy nhiêu trước những hành động của y. Đầu tiên y gia nhập đám các động chủ, đảo chủ trong Vạn tiên đại hội để cùng tấn công lên đỉnh Linh Thứu, và không ngần ngại giết hại bao nữ thuộc hạ của cung Linh Thứu chỉ nhằm mục đích muốn tạo được mối quan hệ với đám quần hùng ô hợp đó nhằm mưu đồ lợi dụng về sau. Khi vị tân chủ nhân của Linh Thứu cung là Hư Trúc xuất hiện, y liệu chừng tình thê không thuận lợi cho mưu đồ của mình nên phải bỏ đi. Đó là bước mở đầu cho sự sa đọa Mộ Dung Phục, về phong độ lẫn lương tri.
Tại chùa Thiếu lâm, khi thấy Tiêu Phong bị quần hùng vây hãm, nhưng chưa ai dám khiêu chiến thì y lại nhảy ra phối hợp với Du Thản Chi và Đinh Xuân Thu để cùng đối phó với Tiêu Phong. Dù biết rõ Du Thản Chi và Đinh Xuân Thu tuy võ công cao cường nhưng nhân cách bị tất vả quần hùng khinh bỉ, và Đinh Xuân Thu đã từng giao chiến với mình, nhưng y vẫn làm điều đó cũng chỉ vì một mục đích duy nhất là
127
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
lấy lòng quần hùng. Khi bị Đoàn Dự dùng Lục mạch thần kiếm đánh cho toi tả, và chỉ thoát chết nhờ lời cầu xin của Vương Ngữ Yên, thì y lại dùng thủ đoạn đánh lén Đoàn Dự! Hình ảnh Mộ Dung Phục thảm hại với đầu tóc xổ tung, bị Tiêu Phong ném lăn long lóc trên mặt đất đã đặt dấu gạch chéo lên hình ảnh của "con rồng Cô Tô" trong lòng người đọc.
Từ đó, bắt đầu cho một chuỗi việc làm thương luân bại lý của Mộ Dung Phục. Khi thấy không thể liên kết được với người của võ lâm để phục quốc thì y lại nghĩ đến việc lợi dụng sức mạnh quân sự của triều đình. Trên đường sang Tây Hạ cầu hôn, y lừa bắt Đoàn Dự ném xuống giếng vì muốn loại bỏ bớt một đối thủ. Y lại làm ngơ khi Vương Ngữ Yên lao mình xuống giếng trong cơn tuyệt vọng, vì y đã quyết tâm đặt đại nghiệp lên trên tư tình. Y không hiểu rằng một trái tim không còn biết yêu thương sẽ biến thành ngôi nhà lý tưởng cho quỷ dữ. Rồi ước vọng trở thành phò mã Tây Hạ cũng không thành. Mộ Dung Phục bắt đầu cơn khốn quẫn.
Khi thời gian càng trôi đi, nghĩa là cái mục tiêu phục quốc trở nên ngày càng xa hơn, thì ta thấy Mộ Dung Phục càng thêm hoảng loạn. Con rồng đáng thương ấy ngày càng quay cuồng một cách tuyệt vọng trong cơn lốc của giấc mơ đại nghiệp. Mộ Dung Bác là kẻ thâm mưu viễn lự, nhưng cái hào quang quá khứ của ông cha đã khiến ông trở nên mê muội, cho nên dù nước Yên là một nước quá bé, ông vẫn cứ mãi mê lao theo con đường phục quốc. Rồi ông lại đặt sứ mệnh tranh giành thiên hạ lên vai con. Mộ Dung Phục, vì áp lực nặng nề của quá khứ và vì giấc mộng làm vua, đã dần dần biến thành nạn nhân trong tham vọng chính trị mù quáng của tổ tiên, mà kết cục thảm bại đã bày ra trước mắt. Ai cũng hiểu được điều đó trừ cha con họ Mộ Dung. Kẻ có tài năng nhưng cuồng vọng tự mãn và mê muội bởi quyền lực, một khi đã quyết tâm thực hiện điều gì thì vào những phút cuối cùng họ sẽ không ngần ngại dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích, nhất là lúc linh cảm được "quỹ thời gian" đang từng lúc cạn dần. Cho nên, dù Mộ Dung Bác đã bừng tỉnh cơn mê "trục lộc" để quy y cửa Phật, nhưng "lực quán tính" của giấc mộng đê vương vẫn cứ kéo Mộ Dung Phục tiếp tục trượt dài trên con đường sa đọa.
Giây phút hoảng loạn nhất của Mộ Dung Phục là lúc y dùng áp lực để cầu xin Đoàn Diên Khánh nhận y làm nghĩa tử. Y giết tất cả các nhân tình của Đoàn Chính Thuần để gây áp lực, buộc vị vương tử đa
128
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
tình này nhường ngôi nước Đại Lý đã là việc làm bại hoại và quá ưtàn nhẫn, nhưng chỗ sa đọa cùng cực của Mộ Dung Phục về nhân cách, đạo đức lẫn suy tư là hành động giết Bao Bất Đồng, một thuộc hạ suốt đời tận tụy trung thành với dòng họ Mộ Dung. Một đại ma đầu ban lĩnh như Đoàn Diên Khánh làm gì không nhận ra dã tâm của Mộ Dung Phục, cần gì Bao Bất Đồng phải nói ra những điều bất hiếu, bất trung bất nghĩa của y? cầu xin ân huệ bằng áp lực, trong khi điều cầu xin là quan hệ thiêng liêng giữa cha con, quả là điều quá buồn cười, nếu không nói là ngu xuẩn. Mộ Dung Phục vẫn làm điều đó không phải vì y bất trí mà chỉ vì cuồng quẫn trong giấc mộng đế vưong, khi thấy mọi nỗ lực đều thất bại.
" Lòng trần còn tơ vương khanh tướng, thì đường đời mưa bay gió cuốn còn nhiều . (Chiều mưa biên giói- Nguyễn Văn Đông). Khi viết đến những dòng này, tôi chợt nhó đến những lời ca đó. Nếu để Mộ Dung Phục chịu đựng bao cảnh ma chiết của "đường đời mưa bay gió cuốn" và chết đi trong giấc mơ phục quốc, thì dù sao cái "Lòng trần còn tơ vương khanh tướng" đó cũng còn có điểm đáng cảm thông; đằng này Kim Dung lại tàn nhẫn để y biến thành "hoàng đế" sống hoang tưởng trong cơn mộng đế vương hư ảo với y phục của phường tuồng, quần thần là đám trẻ con chạy theo xin bánh kẹo, còn "triều đình" thì được dựng lên nơi nghĩa địa. Đó là tất cả những gì còn lại của "con rồng võ lâm" do Kim Dung sáng tạo ra nhưng lại không "điểm nhãn"l
129
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
//
Cuộc chơi" của Vi Tiểu Bảo
" Người đàn ông đích thực cần hai điều: đó là sự nguy hiểm và chơi đùa. Chính vì thế mà hắn cần đến đàn bà như là vật chơi đùa nguy hiểm nhấc\ (F.Nietzsche)
Theo triết gia cổ đại Hy Lạp Heraclitus thì cuộc đời là một trò chơi lớn, một "Grand Jeu". Nhà thơ Tô Đông Pha nói "Tạo vật hà như đồng tử hyị" (Tạo vật sao giống như đứa trẻ chơi đùa?). Đến đấng Tạo Hóa toàn năng còn là một đứa bé thích chơi đùa, huống gì con người bình phàm chúng ta? Mà cuộc chơi có thể hiểu theo nhiều cách. Ngồi thiền định suốt bao năm tháng dưới gốc bồ đề, suốt đời rong ruỗi khắp nơi thuyết pháp cứu độ chúng sinh, để rồi cuối đời ngồi tại đạo tràng bảo "Bốn mươi chín năm qua, ta chưa nói lời nào" (!) như đức Phật cũng là một cách chơi. Viết "Đoạn trường tân thanh" làm tan nát cả lòng người, và làm chấn động cả khối tam giáo phương Đông, nhưng lại khiêm tốn bảo "Mua vui cũng được một vài trong canh" như Nguyễn Du cũng là một cách chơi. Viết một cuốn sách vô tiền khoáng hậu, đặt lại cở sở cho mấy ngàn năm triết học phương Tây, nhưng lại ỡm ờ bảo đó chỉ là "Siêu hình học nhập môn" (Introduction à la Métaphysique) như Heidegger cũng là một cách chơi. Từ chối quan tước, cứ ngồi câu cá để "du tâm ưđạm" (đem chơi lòng vào chỗ nhạt), viết Nam hoa kinh làm kinh động cổ kim như Trang Tử cũng là một cách chơi. Chán chường thi ca nhưng vẫn cứ mãi miết làm thơ như Bùi Giáng cũng là một cách chơi. Hùng tâm vạn trượng nhưng lại làm một tên bán thịt lợn giữa chợ thành Đại Lương, để rồi giúp Ngụy Công tử lập nên công lớn như Chu Hợi thời Chiến quốc cũng là một cách chơi. Biết rằng có giết được Tần Thủy Hoàng cũng chỉ tạo ra hàng trăm tên bạo chúa khác, nhưng vì cảm nghĩa nên vẫn mang chủy thủ vượt qua sông Dịch, vờ múa vu vơ giữa triều đình vua Tần để rồi bị giết chết như Kinh Kha cũng là một cách chơi. Và có một nhân vật của Kim Dung còn "chơi" hơn thê nữa, chơi những trận chơi quỷ khốc 1
1 A real man vvants two things: danger and play. Thereíore he vvants vvoman as the most dangerous plaything" (Thus Spoke Zarathustra, The Portable Nietzsche, The Viking Press, 1968, translated by w. Kauíman, p.1 78)
130
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
thần sầu, xem cõi đời là môt trò chơi lớn và đàn bà là môt canh bac lớn để đem hết "vốn liếng" ra chơi theo kiểu "nhất chín nhì bù". Đó chính là Vi Tiểu Bảo!
Trong tất cả các sáng tác của Kim Dung, Lộc đỉnh ký là tác phẩm hoàn toàn khác biệt với các tác phẩm khác. Không còn những hoang sơn u cốc có cao nhân kỳ sĩ cư trú để truyền lại cho nhân vật chính những võ công đặc dị chấn động giang hồ. Cũng không còn những cá nhân mang hùng tài đại lược lăm le muốn làm minh chủ võ lâm. Tất cả hoạt động của bang hội hay các phe phái đều diễn ra trên một bối cảnh chính trị, đó là nhằm chiếm được bộ Tứ thập nhị chương kinh. Võ công của nhân vật chính Vi Tiểu Bảo bị đẩy xuống hàng thứ yếu, và thay vào đó là thói lưu manh cùng những trận "võ mồm"!
Trong lịch sử văn học, có lẽ khó có nhân vật nào quỷ quyệt lưu manh như Vi Tiểu Bảo. Từ một đứa con hoang của cô gái điếm trong kỹ viện, tình cờ bị bắt vào hoàng cung, phải dùng đủ mọi thủ đoạn để tồn tại, chưa tới hai mươi tuổi mà đã Vi Tiểu Bảo nhanh chóng trở thành một người bạn thân cận của vua Khang Hy, một quan đại thần đến tước công, một "bộ trưởng ngoại giao" tài ba lỗi lạc trong việc ngăn không cho Mông cổ và Tây Tạng cấu kết với Ngô Tam Quế đánh lại triều đình, một vị anh hùng trong chốn giang hồ, hương chủ Thanh mộc đường của Thiên địa hội, một phu quân của bảy bà vợ xinh như mộng. Thậm chí các bậc di thần của triều Minh còn đề nghị y làm hoàng đê của "chính phủ lâm thời phản Thanh phục Minh"\ So với Vi Tiểu Bảo, thì Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng hay Nikôđem Đizma của T.D. Môxtôvích chỉ là những anh học trò sơ cấp.
Vi Tiểu Bảo đã đem thói lưu manh học được ở kỹ viện và dùng máu mê cờ bạc để đối phó với mọi tình huống giữa giang hồ và chốn cung đình. Oái ăm thay tất cả đều trót lọt! Những lúc phải đối phó với hoàn cảnh sinh tử cận kề, cần phải xác định "thái độ quan điểm" để trở thành hoặc kẻ thù hoặc ân nhân của những người xa lạ, thì Vi Tiểu Bảo lại quyết định đem sinh mạng ra chơi theo kiểu đánh bạc. Tất cả vốn liếng đem ra đánh sạch một ván theo kiểu "Được ăn cá, ngã về không". Và may mắn là lần nào y cũng thắng. Khi bị quần hùng Thiên địa hội bắt đem đi, Vi Tiểu Bảo tính toán mãi không biết họ là bạn hay kẻ thù của Ngao Bái, nhưng y đã đánh liều thóa mạ Ngao Bái không tiếc lời. Và canh bạc đầu tiên đó đã đem lại cho y chức hương chủ Thanh mộc đường. Cũng như khi bị vây khốn trong ngôi nhà ma của
131
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
họ Trang, Vi Tiểu Bảo sau khi cân nhắc lại liều mạng chửi bới Ngao Bái, và canh bạc này đã giúp vị "Vi tướng công" trở thành ân nhân của nhà họ Trang, đồng thời lại được tặng một cô Song Nhi diễm kiều hiền thục!
Máu mê gái của Vi Tiểu Bảo cũng bồng bột như máu mê cờ bạc. Gặp cô nào đẹp, y cũng đều so sánh ngay với các kỹ nữ của Lệ xuân viện, là cái nhà chứa noi y xuất thân. Các nhân vật A Kha hay Hồng phu nhân đều khiến y mê tít đến điên đảo thần hồn, nhưng y thừa thông minh để hiểu rằng trong "canh bạc tình yêu" này, y không thể thắng trong một cuộc chơi sòng phẳng, mà thậm chí có thể dễ dàng mất mạng, nên buộc lòng phải dùng đến trò láu cá. Khi về thăm lại mẹ trong Lệ xuân viện, Vi Tiểu Bảo lại dùng Mê xuân tửu gây mê các người đẹp, trong đó có cả A Kha, Hồng phu nhân, rồi hãm hiếp họ để họ phải mang bầu với mình.Chiếm đoạt cùng một lúc mấy người đẹp tuyệt trần bằng thủ đoạn lưu manh, đó quả là một điều đáng để người đọc phải chau mày nhăn mặt!
Ba mon "đại pháp bảo" mà Vi Tiểu Bảo dùng để hộ thân và lập được công trạng là vôi bột, tấm tàm y hộ thân và lưỡi chủy thủ. Tâm tàm y giúp y nhiều phen thoát chết trước những đòn tấn công của kẻ thù. Vôi bột thì dùng để ném vào mặt đối phương khiến cho đối phương tối tăm mặt mũi, sau đó dùng lưỡi chủy thủ cực bén để đâm chết đối phương. Khi y dùng thủ đoạn này lần đầu để giúp Mao Thập Bát giết chết Hắc Long Tiên Sử Tùng trong giây phút mạng sống họ Mao chỉ ngàn cân treo sợi tóc, Mao Thập Bát đã không cám ơn thì chớ còn lên tiếng thóa mạ y tàn tệ, vì họ Mao biết rằng đây là thủ đoạn cực kỳ đê hèn sẽ bị khách giang hồ phỉ nhổ. về sau, y cứ tiếp tục dùng thủ đoạn này để làm mù mắt Hải ĐẠi Phú và bắt sống Ngao Bái.
Nhưng nếu chỉ dựa vào thói lưu manh vô lại để luồn lách và tồn tại thì "cuộc chơi" của Vi Tiểu Bảo có lẽ đã sớm phải chấm dứt dưới tay của Khang Hy rồi. Vi Tiểu Bảo là chú nhỏ láu cá, mồm mép trơn tuột như bôi mỡ, giảo hoạt đủ cách nhưng có điểm khả thủ là rất tôn trọng đạo nghĩa bạn bè, trong cung đình cũng như giữa chốn giang hồ. Đó là điều vua Khang Hy cảm nhận được, nên ông mới tha thứ cho những việc làm động trời của tên "Tiểu quê tử" Vi Tiểu Bảo. Tính tình hào hiệp trong tiền bạc và tấm lòng đầy nghĩa khí của Vi Tiểu Bảo đối với bạn bè đã giúp cho Vi Tiểu Bảo nổi bật lên giữa những cái xấu xa, và che khuất đi những chuyện lưu manh láu cá. Nhận ra được ưu
132
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
điểm ấy ở Vi Tiểu Bảo, vua Khang Hy quả có "con mắt trong nghìn thu" khi đánh giá con người. Kiến lợi tư nghĩa: thấy điều lợi phải nghĩ đến điều nghĩa. Cái đạo lý đơn giản đó rất khó lòng thực hiện trong đời thường.
Thời Chiến quốc, công tử nước Ngụy là Ngụy Tề đắc tội với Phạm Thư là tể tướng nước Tần. Phạm Thư hạ lệnh cho vua Ngụy phải nộp đầu Ngụy Tề, nếu không sẽ đem quân làm cỏ thành Đại Lương. Ngụy Tề bèn bỏ trốn đến nước Triệu, nương náu nhà tướng quốc nước Triệu là Ngu Khanh. Vua Triệu vì sợ uy của nước Tần nên muốn bắt Ngụy Tề đem nộp, Ngu Khanh thấy không thể can ngăn vua được bèn cởi ấn tướng quốc, nửa đêm cùng Ngụy Tề trốn đi. vất bỏ lợi danh vì bạn thiết. Một nhân cách sáng ngời nghĩa khí của người xưa, luôn được người đời sau ca ngợi. Khi vua Khang Hy "tương kế tựu kế" dồn tất cả quần hùng Thiên địa hội và Mộc vương phủ vào phủ Tử tước của Vi Tiểu Bảo để tận diệt bằng đại pháo, thì Vi Tiểu Bảo dám vất bỏ tất cả tài sản lẫn quyền lực, như vứt một đôi dép rách, để ban đêm cùng họ trốn đi. Vi Tiểu Bảo luôn bị xem là kẻ lưu manh vô lại nhưng thử hỏi tấm lòng vì đạo nghĩa giang hồ đó có khác gì nhân cách của một Ngu Khanh?
Ngụy Tề là tai họa cho Ngu Khanh, cũng như quần hùng Thiên địa hội và Mộc vương phủ là tai họa cho Vi Tiểu Bảo; nhưng cả Ngu Khanh và Vi Tiểu Bảo đều có chung một điểm là sẵn sàng hy sinh tất cả mọi vật ngoại thân quý báu để cứu những người bạn, dù biết rằng điều đó có thể đem tới cho mình họa sát thân. Nghĩa cử đối với thầy và bè bạn như thê đủ để cảm động lòng người trong muôn thuở. Trong đời, có biết bao kẻ trí thức chỉ vì hai chữ danh và lợi mà sẵn sàng hại bạn bè thân thiết đến thân bại danh liệt, dùng bè bạn làm bậc thang đi lên cái gọi là công danh, thử hỏi tư cách những kẻ đó có xứng đáng để xách dép cho y "oắt con lưu manh" Vi Tiểu Bảo hay không? Trong Lộc đỉnh ký, Kim Dung bỏ qua yếu tố "võ", nhưng không quên yếu tố "hiệp". Mà chính tố chất "hiệp" mới là cái làm cho khách giang hồ được là khách giang hồ!
Trận "chơi" quỷ khốc thần sầu đó đã khiến cho Vi Tiểu Bảo phải "mất sạch vốn liếng" và sống lưu lạc trên hoang đảo. Nhưng bù lại y có được bảy người vợ đẹp. Lần cuối cùng, khi vua Khang Hy đồng ý tha cho về lại cung, thân làm đến bực công khanh, oai quyền tiền bạc trùm đời, vậy mà Vi Tiểu Bảo dám "chơi" tiếp một việc tày đình nữa là
133
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
tìm cách "di hoa tiếp mộc", đem đánh tráo Phùng Tích Phạm tại pháp trường để cứu tội phạm của triều đình là Mao Thập Bát, cũng chỉ vì đạo nghĩa giang hồ. Và biết rằng không thể che dấu mãi việc làm tày đình đó với Khang Hy, nên Vi Tiểu Bảo dựng nên hiện trường giả bị bọn cướp bắt đi, quyết tâm vất bỏ tất cả để đem vợ con trốn về Dưong Châu, sống cuộc đời khoái lạc của một phú ông. Vi Tiểu Bảo vô hình trung lại học được tinh thần "công thành thân thoái" của Phạm Lãi: giúp Việt vương Câu Tiễn dựng nên nghiệp bá xong là đem người đẹp Tây Thi bỏ trốn khỏi triều đình, để làm một Chu Công giàu có và ngao du tứ hải. Vi Tiểu Bảo còn hơn thế nữa. Ung dung làm một phú ông ở Dương Châu với bảy cô vợ xinh đẹp đến mức phi tần nhà vua phải ghen tỵ , đó chẳng phải là điều thống khoái trên đời ư?
Công và tội của Vi Tiểu Bảo đối với Khang Hy cũng được Vi Tiểu Bảo đánh giá sòng phẳng như một canh bạc. Khi thấy vua Khang Hy biết mình là "Vi hương chủ" của Thiên địa hội, Vi Tiểu Bảo phải một phen kinh hãi, nhưng cũng đề nghị vua "đánh bài ngữa" để vua cân nhắc thiệt hơn. Khi xét thấy công lẫn tội của Vi Tiểu Bảo đối với triều đình là ngang nhau, "canh bạc" đó xem như hòa, nên vua tôi đều đồng ý "xóa bàn làm lại"ĩ
Trong Vi Tiểu Bảo tôi lại thấy có thấp thoáng một chút hình ảnh của Lệnh Hồ Xung. Vi Tiểu Bảo và Lệnh Hồ Xung có nhiều điểm rất gần nhau, nhưng theo tỷ lệ đảo ngược nhau. Nếu Lệnh Hồ Xung có tám phần nghĩa khí và hai phần giảo họat thì Vi Tiểu Bảo có tám phần giảo hoạt và hai phần nghĩa khí. Điểm giống nhau giữa hai nhân vật này là rất tôn trọng tình nghĩa bè bạn giang hồ. Lệnh Hồ Xung mê rượu như Vi Tiểu Bảo mê đánh bạc. Để thoát hiểm trong những lúc cận kề cái chết thì Lệnh Hồ Xung tám phần nhờ vào võ công, hai phần nhờ vào cái miệng, còn Vi Tiểu Bảo tám phần nhờ vào cái miệng, hai phần nhờ vào võ công. Vi Tiểu Bảo luôn dùng cái miệng giảo hoạt bịa ra đủ thứ trên đời để tìm cách thoát nạn. Lúc Lệnh Hồ Xung toàn thân bất lực trong kỹ viện thành Hành Sơn, trong khi Khúc Phi Yến và Nghi Lâm run rẩy nấp trong chăn, nếu không nhờ cái mồm láu cá giảo quyệt thì chắc gì đã lừa được Dư Thương Hải? Lúc Lệnh Hồ Xung và Nhậm Doanh Doanh bị trói gô lại trên gác chùa Hằng Sơn, và đám Du Tấn, Cửu Tùng Niên toan giết họ để bịt miệng thì chàng ta vờ hô khẩu quyết của Tịch tà kiếm pháp để lừa giết được đám người kia và thoát
134
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
nạn. Đem "hàng giả" để đổi lấy mạng sống thực, việc cơ biến ấy của Lệnh Hồ Xung có khác gì Vi Tiểu Bảo?
Thói lưu manh cờ bạc trong một tâm hồn biết xem trọng đạo nghĩa, đó là "tấm giấy thông hành" giúp Vi Tiểu Bảo đi thông suốt mọi nẻo đường đời. Từ chỗ nhơ bẩn nhất là kỹ viện cho đến chỗ tôn nghiêm nhất là cung đình. Những người đàn bà mà Vi Tiểu Bảo gặp đều là những "cuộc chơi nguy hiểm", nhưng y vẫn liều lĩnh nhập cuộc bằng tất cả sự đam mê. "Một trà một rượu một đàn bà, Ba cái lăng nhăng nó quấy ta, Chừa được cái nào hay cái ấy, Có chăng chừa rượu với chừa trài" (Tú Xương). Vi Tiểu Bảo cũng chỉ có thể vứt bỏ các thứ "trà rượu" của lợi danh, nhưng không thể vứt bỏ đàn bà. Riêng điểm này, Vi Tiểu Bảo còn "chơi ngon" hơn cả Mộ Dung Phục, và "đứng đắn" hơn cả Điền Bá Quang. Trong đời có bao nhiêu người "đàn ông đích thực" dám đem sinh mạng ra đánh "cạn láng" với những "cuộc chơi nguy hiểm" đó, trong canh bạc đời, như Vi Tiểu Bảo?
135
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
Kim Dung và Ngọa Long Sinh: Thiên kiếm với
T uyệt đao'
"Trước kiếm Cơ Đồng không còn tuyệt học, dưới đao lão phu không có sinh cờ' câu nói đó cuả Thiên hạ đệ nhất đao Hướng Ngao như muốn mở ra hai dòng nghịch lưu chảy quanh cái quan niệm về võ học trong tư tưởng của Ngọa Long Sinh, một đại bút về tiểu thuyết võ hiệp. Cùng với Kim Dung, nhưng bằng một phong cách khác hẵn Kim Dung, Ngọa Long Sinh đã lặng lẽ mở ra một chân trời huyền ẩn cho tư tưởng để tựu thành những điều bất khả tư nghi cho cõi đạo Sơ Thủy Đông Phương.
Nói đến tiểu thuyết võ hiệp, người ta thường nói đến Kim Dung,
và tiếp theo đó là cổ Long, Gia Cát Thanh Vân, Nam Kim Thạch
Nhà phê bình Trung Quốc Vương Sóc đả kích Kim Dung thậm tệ nhưng lại chấp nhận cổ Long, và ông đánh giá cổ Long cao hơn Kim Dung rất nhiều. Mỗi người đều có quyền nhận định theo cách riêng của mình. Chúng ta cũng vậy, và nên vậy. Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật không thể có cái khách quan tuyệt đối. Không thể có một tác phẩm hay hoặc dở đối với tất cả mọi người. Đối với một tác phẩm hoặc tác giả, chúng ta không nên bài xích, khen ngợi theo dư luận, trừ phi chúng ta đến với tác phẩm hay tác giả đó mà không định kiến, và tự rút ra những nhận định riêng của mình. Những môn đồ của Tinh tú lão quái Đinh xuân Thu không phải là không đầy dẫy trong dư luận, cũng như trong những ý kiến phê bình. Ngọa Long Sinh tương đối được ít nhắc đến hơn các tác giả trên, nhưng ngoài Kim Dung và Ngọa Long Sinh ra, tôi thấy trong tác phẩm của các tác giả đó, mọi tư tưởng và ý đồ tác giả đều hiện lên trên từng trang giấy, trong từng câu nói của các nhân vật, như những sợi chỉ nổi ngổn ngang trên một tấm vải may vụng. Đó là bi kịch của những người mong muốn lập ngôn. Mà văn chương như thế, ta chỉ có thể đọc một lần. Như ăn mía. Nhai một lần đã mất hết vị ngon. Với một đôi chút cực đoan, tôi dám khẳng định rằng cùng sánh vai với Kim Dung, chỉ có Ngọa Long Sinh là 1
1 Mặc dù đã chịu khó đi tìm, nhưng rất tiếc tôi không thể tìm đươc cuốn nguyên tác nào của Ngọa Long Sinh để đối chiếu cả. Nên các nhận định trong bài này chỉ dựa hoàn toàn vào các bản dịch và trí nhớ. Nếu có gì sai sót, rất mong được bạn đọc chỉ giáo thêm.
136
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
người biểu hiện được những tư tưởng thâm trầm u áo, thậm chí có nhiều điểm còn vượt hẳn Kim Dung, dù các kiệt tác của ông không được phổ biến nhiều trong giới bạn đọc Việt Nam. Nếu đến với Ngọa Long Sinh từ Kim Dung, thì những người đọc vôi vàng thường dễ thất vọng. Bởi vì từ cái thê giới sinh động của Kim Dung với những tình tiết lâm ly, những cốt chuyện hấp dẫn, chúng ta như bước vào cung điện trang nghiêm với bầu không khí vô cùng trầm mặc. Trong tác phẩm ông thường thiếu vắng những tràng cười họat kê, những câu khôi hài ngộ nghĩnh hay những kẻ lãng tử khoái họat như trong tác phẩm Kim Dung. Sự hồi hộp gay cấn cùng những tình tiết bất ngờ cũng chỉ mức độ nửa chừng. Chỉ khi nào ta kiên nhẫn theo dõi ông thật kỹ qua một vài tác phẩm, ta sẽ thấy tư tưởng ông còn có những điểm thâm trầm hơn cả Kim Dung. Có điều ông che dấu tư tưởng mình quá kín, và như thế là thử thách bạn đọc quá nhiều. Cũng như Kim Dung, ông là người thâm cảm được sự bê tắc trong việc biểu đạt triết học Đông phương bằng ngôn ngữ triết học trường trại hiện nay, nên ông âm thầm khai phá một con đường đi riêng biệt rất mực.... Ngọa Long Sinh! Ông Bùi Giáng đã nhận xét một cách triệt để:"Những kiệt tác của Ngọa Long Sinh đi song song với Kim Dung và Gia Cát Thanh Vân - thực hiện một cuộc chuyển biến dị thường trong lịch sử văn học tư tưởng Trung Hoa
I|1
Kim Dung thường chia võ học theo hai nguyên lý Âm Dương, như trong giới tự nhiên. Từ đường lối luyện công cho đến chiêu thức, đặc biệt là trong quan điểm về nội lực. Một bên thì âm hiểm mềm mại, một bên thì cương trực mạnh mẽ. Hai mặt đối lập nhau ấy, nếu được dung hóa trong một cá thể thì năng lượng kết hợp sẽ trở thành gần như vô tận. Một người học võ nếu hóa hợp được nội công âm nhu và dương cương thì nội lực sẽ trở nên vô địch. Thông thường thì chỉ có bậc chân tu đạo hạnh như Trương Tam Phong, một bậc Lão Tử trong võ học, mới đạt nỗi đến cảnh giới đó bằng cái tâm tuyệt đối thanh tĩnh vô vi. Những kẻ khác, dù là đại cao thủ, nếu có tham vọng luyện được cả hai môn sẽ rơi vào trạng thái "tẩu hỏa nhập ma". Những cao thủ tuyệt đỉnh như Nhậm Ngã Hành, Phương Chứng đại sư, hay Hoàng Dược Sư.... đều chỉ có thể luyện nội công theo một đường lối Dương công họăc Âm công mà thôi. Nhưng cũng có những người do cơ duyên run rủi mà đạt đến cảnh giới võ học tối cao đó ở ngay tại chỗ 1
1 Sương Bình Nguyên, tr.498.
137
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
"sinh tử quan đầu". Đó là trường hợp một Trương Vô Kỵ hóa giải được Nhất âm chỉ và Cửu dương thần công trên Quang Minh Đỉnh, hay là trường hợp một Thạch Phá Thiên hợp nhất được Viêm viêm công và
môn độc chưởng âm hàn trên Ma Thiên Lĩnh Nhờ vậy mà hai nhân
vật đó đã đạt đến cảnh giới "tam hoa tụ đỉnh", "ngũ khí triều nguyên " tối cao trong võ học. Như Âm và Dương dù đối nghịch nhau, nhưng khi đã được tương dung hợp nhất trong vòng tròn Thái cực, thì cứ tự tại an nhiên để tiêu trưởng thiên biến vạn hóa, mà vẫn không làm đảo lộn trật tự của trời đất. Giống như một người đã giác ngộ thì nói năng động tĩnh đều phát huy diệu dụng, đi đứng nằm ngồi đều biểu lộ huyền cơ. Đó chính là quan điểm về võ học của Kim Dung, nhất là trong quan điểm về nội lực.
Ngọa Long Sinh lại đi theo con đường biểu đạt khác, rất khó nhận ra. Chỉ trong tác phẩm Thiên kiếm Tuyệt đao, tư tưởng ông mới hơi hé lộ cho ban đọc một đôi chút, qua một nhân vật Cơ Đồng với Thiên kiếm vô địch thiên ha, và một nhân vật Hướng Ngao với Tuyệt đao đệ nhất võ lâm. Sống xa cách nhau bên kia Sinh Tử kiều, hai cao thủ tuyệt đỉnh tượng trưng cho hai cái đối cực về võ học đó đang bị bế tắc trong việc hợp nhất với nhau. Một bên là Thiên kiếm theo nguyên lý Sinh, đem bi tâm trùm lên kiếm pháp để hóa giải tất cả võ học trong thiên hạ. Một bên là Tuyệt đao theo nguyên lý Diệt, đem sát tâm hóa vào đao pháp để tận diệt mọi đối thủ trên đời. Trong khi Kim Dung muốn cho rằng mọi võ công đều có tính tương đối, và phải chịu khắc chế lẫn nhau, thì với Ngọa Long Sinh, cả hai nguyên lý Sinh Diệt đó đều được đẩy đến chỗ thủy tận sơn cùng! Trước Thiên kiếm không còn tuyệt học, dưới Tuyệt đao không có sinh cơ.. Thiên kiếm không thể giết người, mà mỗi khi sử dụng chỉ có thể buộc đối phương buông khí giới qui hàng, vì cảm thấy mình bị dồn vào tuyệt lộ. Đó cũng là cách dẫn dụ và hóa độ người theo nguyên lý đại bi, nên nó còn có tên là Đại bi kiếm pháp. Thiên kiếm có thể hóa giải tất cả võ học trong thiên hạ, nhưng nếu bị phá giải thì xem như đối diện với diệt vong. Tuyệt đao mỗi lần vung ra là ngập tràn sát khí nên không thể không giết người. Nhưng nếu không giết được đối phương hay bị đối phương phá giải thì xem như lâm vào tử lộ. Nếu dùng Thiên kiếm để giao đấu với Tuyệt đao thì ai thua ai thắng, khi mà cả hai đều là hai cực tuyệt đối không thể dung hòa? Làm thế nào để đem được sát tâm của Tuyệt đao hòa vào Thiên kiếm, cũng như làm thế nào để hòa được bi tâm
138
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
của Thiên kiếm vào sát khí của Tuyệt đao? vấn nạn này cứ ám ảnh mãi chàng thiếu niên Tả Thiếu Bạch. Câu hỏi đó như đặt lý trí trước một huyền án lửng lo. Mà người duy nhất có thể giúp chàng ta tìm câu giải đáp lại là một cô gái mù lòa ẩn cư chốn lều tranh! Chính ở điểm này, Ngọa Long Sinh đã âm thầm đặt lại tư tưởng trên một căn co bất khả tư nghi.
Thiên kiếm và Tuyệt đao giống như thần Bảo vệ vhisnu và thần Hủy diệt Shiva trong tư tưởng Ân Độ giáo. Chỉ có thần Brahma mới hợp nhất được hai vị thần đó trong tam vị nhẩt thể để khoi dẫn nguồn sáng tạo. Thiên kiếm và Tuyệt đao không thể dung hòa nhau, nhưng Ngọa Long Sinh đã sáng tạo một nhân vật có thể hưởng được cả hai tuyệt kỹ hoàn toàn đối lập nhau đó, như một sự điều hòa. Đó là Tả Thiếu Bạch. Chàng thiếu niên bị truy sát, trong cơn hoảng lọan tuyệt vọng đã vượt qua được Sinh Tử kiều, một cây cầu đầy huyền thọai trong võ lâm mà mọi kẻ vượt qua đều phải chết. Chính ở trong trạng thái vô tâm, đem chuyện sống chết gạt bỏ ra ngoài lòng mà chàng thiếu niên kia mới vượt qua được cây cầu Sinh Tử. Mà đạt được trạng thái vô tâm, vượt trên sinh tử như thê là đã đặt được những bước chân đầu tiên đến cõi thâm huyền, theo truyền thống tu học Đông phương. Đó là điều kiện để đi vào cảnh giới uyên áo của tư tưởng, mà trong Thiền tông gọi là "Tuyệt hậu tái tố" (Chết đi sống lại ). Muốn cho Tả Thiếu Bạch học được cả Tuyệt đao lẫn Thiên kiếm, Ngọa Long Sinh phải để chàng thiếu niên đó một lần vượt qua cõi Tử Sinh. Và chính từ cảnh giới đó mà con người thường phát huy diệu dụng. Các thiên tài Đông Tây kim cổ đều thâm giải điểm chung này. Ông Nguyễn Du thì bóng bảy hơn bằng cách để Sư trưởng Giác Duyên vớt Thuý Kiều từ sông Tiền Đường. Còn Kim Dung cũng có một lần để Lệnh Hồ Xung rơi vào trạng thái tuyệt vọng tại Dược Vương miếu, sinh tử đại sự không còn làm anh ta quan tâm nữa, nên chỉ mới lần đầu tiên mà chàng ta đã phát huy Độc Cô kiếm pháp đến mức tuyệt luân, đánh bại Cuồng phong khoái kiếm của Phong Bất Bình, và chỉ bằng một chiêu kiếm đã đâm mù mắt 1 5 tên môn đồ phái Tung sơn. Trong tác phẩm của Ngọa Long Sinh, các điều phụ thuộc thường được trình bày tràng giang đại hải lại chẳng hấp dẫn bao nhiêu, trong khi những điều cốt yếu, những vấn đề trầm trọng cho tư tưởng lại chỉ được đề cập phớt qua.
139
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Thiên nhiên của Ngọa Long Sinh cũng không hùng vĩ đa dạng, không muôn sắc nghìn màu cho bằng thiên nhiên của Kim Dung. Nhưng thế giới nội tâm của các nhân vật lại thường u uẩn khắc khoải hon rất nhiều. Và đàng sau cái thế giới đó, ta thường bắt gặp nỗi trầm tư sâu thẳm về cõi tồn sinh hay cái nhìn trầm mặc vào nỗi đời dâu bể. Một quái nhân như Tiêu Tiên (trong Vô danh tiêu) tự giam mình trên gác vắng hàng mấy mươi năm trời để khổ luyện võ công, muốn đem nội kình gởi vào tiếng tiêu để sát thương địch nhân ở xa hàng dặm, trong chỗ vô hình tích. Ý niệm về thời gian như không còn nữa. Thời gian như đã ngừng trôi trong thế giới nội tâm và con người đó như muốn hướng mình theo tiếng gọi của vô biên và tuyệt đích. Một quan điểm như thế về võ công có lẽ không tìm thấy trong tác phẩm của Kim Dung. Ba vị cao nhân võ lâm khác là Trang Sơn Bối, Nam Dật Công và Liễu Tiên Tử (trong Kim Kiếm điêu linh ) tự ẩn mình tuyệt tích trong núi hoang, hằng năm lại tỷ thí để tranh nhau chức vô địch. Từ thuở tráng niên, cho đến khi tro tàn thời gian bay bạc trắng cả mái đầu. Tiếng thở dài của Nam Dật Công chốn hoang sơn khi giật mình ngẫm lại, nghe ra còn thê lương hơn cả hình ảnh Tã Lãnh Thiền mù lòa gào thét trên Phong Thiền đài: tất cả cảnh đời dâu bể đó cũng chỉ vì cái lụy của chữ Danh. Những vấn đề này, ngoài bút tài hoa của Kim Dung chắc chắn sẽ lôi cuốn người đọc hơn nhiều, nhưng cũng vì thế mà dễ mất đi sự thâm trầm của tư tưởng, là những chiều sâu cần trầm tư quán tưởng hơn là biểu đạt trên văn tự ngữ ngôn.
Tác phẩm Kim Dung giống như Thiên kiếm, và tác phẩm Ngọa Long Sinh không khác Tuyệt đao. Thiên kiếm thuờng được ưa thích hơn Tuyệt đao, cũng như Thi Quỉ Lý Hạ đâu có được mến mộ bằng Thi Tiên Lý Bạch hay Thi Phật Vương Duy. Nhưng cả kiếm lẫn đao đều vạch ra một thông lộ cho người đọc tìm về cõi đạo phương Đông. Trong Tuyệt đao đã hàm ẩn Thiên kiếm, và trong Thiên kiếm vẫn thấp thóang Tuyệt đao. Nhưng tại chỗ chót vót sơ đầu, cả Thiên kiếm và Tuyệt đao đều hợp nhất thành Một, bởi vì đó chỉ là hai lối rẽ tạm thời trong tư tưởng do yêu sách của việc lập ngôn!
140
Lai rai chén rượu giang hồ Tuongduongthanh.blogspot.com Huỳnh Ngọc Chiến
Phụ lục: Góp phần đánh giá sự đánh giá Kim Dung tại Việt Nam
Tại Việt Nam, dường như hiếm có tác giả nước ngoài nào lại được sự quan tâm lâu dài của độc giả thuộc mọi thành phần trên khắp đất nước như Kim Dung. Bất kì một tác gia nước ngoài nào, hoặc vĩ đại như Homère, Shakespeare, F.Dostoievski..., hoặc bình dân như Quỳnh Dao, Từ Trẫm Á.... đều chỉ được tìm đọc trong một giới độc giả nhất định nào đó. Kim Dung thì khác hẳn. Người tìm đọc ông hầu như thuộc đủ mọi thành phần: từ người lao động bình dân, từ người tiểu thương thành thị cho đến giới tri thức khoa bảng. Trên thế giới, các bạn đọc đã lập hội "Kim Dung học " tại Đài Loan, Hồng Kông, Mỹ, Pháp, Úc... Tại Trung Quốc, toàn bộ tác phẩm ông đã được in ấn lại một các nghiêm túc từ năm 1985 và đã được tái bản nhiều lần.
Ông lại vinh dự được nhà nước Trung Quốc phong tặng học hàm giáo sư danh dự của Đại học Bắc kinh. Trên InterNet cũng đã có WebSite dành riêng cho Kim Dung, trong đó các bản dịch tiếng Việt tác phẩm của ông hầu như đã được các "fan" Kim Dung type lại gần như đầy đủ!
Tại miền Nam, trước 1975, Kim Dung đã nổi bật lên như một
hiện tượng văn học kì lạ. Báo chí đua nhau in feuiletton các truyện đăng tải nhiều kì của ông rồi xuất bản thành bộ. Truyện chưởng của Kim Dung thu hút đông đảo các tầng lớp độc giả và hầu như khuynh loát cả thị trường chữ nghĩa, báo chí ở miền Nam trong những năm 1965-1973. Truyện chưởng chen vào từng ngóc ngách của đời sống. Hiện tượng đó thường được lý giải là do điều kiện chiến tranh và tình hình xã hội tăm tối tại miền Nam thời bấy giờ đã khiến mọi người tìm đến với Kim Dung như một lối thoát cho chính mình, tìm đến một thế giới hoang đường để tạm lãng quên đi thời cuộc. Sau ngày đất nước giải phóng, Kim Dung cũng bắt đầu xuất hiện trở lại thông qua một số bài nghiên cứu trên sách báo, mà hầu hết là bài xích và đả kích. Dần dà, khi điều kiện văn hoá - xã hội cho phép ta nhìn Kim Dung một cách khách quan và trung thực hơn thì số lượng khá đông đảo các ngòi bút tên tuổi từ Nam chí Bắc đã góp phần nghiên cứu đánh giá Kim Dung một cách nghiêm túc: từ đả kích dến tán đồng, từ ngợi khen đến chê bai. Tất cả đều có một điểm chung là giúp người ta tìm hiểu Kim Dung dưới nhiều bình diện, đánh giá Kim Dung dưới nhiều góc
141
Lai rai chén rượu giang hồ
Tuongduongthanh.blogspot.com
Huỳnh Ngọc Chiến
độ. Dầu đả kích hay tán đồng, dầu khen ngợi hay chê bai thì một điều ai cũng phải nhận thấy: hiện tượng Kim Dung là một vấn đề không thể phủ nhận được.
Trước 1975, người ta thích đọc truyện Kim Dung. Thời gian về sau, người ta chỉ thích xem phim dựa theo truyện của ông và đọc các bài nghiên cứu về ông. Để góp phần rất nhỏ trong việc đánh giá sự đánh giá Kim Dung tại Việt Nam, tôi xin trình bày một vài nhận định của mình về hai nhà bình phẩm Kim Dung (tạm gọi như thê ) tiêu biểu tại Việt Nam. Tại sao là hai người này mà không là những cây bút tên tuổi khác? Lý do chọn lựa của tôi có lẽ chỉ dựa theo cảm tính mà thôi. Việc họ được nêu tên ở đây không có nghĩa là họ cao viễn hoặc hoằng đại hơn những nhà nghiên cứu khác không được nêu tên, mà chỉ đơn giản vì tôi đã tìm thấy nơi các bài viết của họ những ý tưởng quen thuộc, khơi dẫn giúp cho người đọc nhận ra một thông đạo từ sách võ hiệp tìm về cõi đạo Đông Phương và những cội nguồn tư tưởng khác.
Theo thiển ý của tôi, khi tìm hiểu tư tưởng một tác gia nào đó, điều quan trọng nhất không phải ở chỗ ta thống kê và tổng hợp được những khía cạnh, những vẫn đề nằm tản mạn trong tác phẩm của họ. Những cách tổng hợp theo kiểu xã hội học hoặc thư tịch học... không thể giúp ta đi vào chiều sâu tư tưởng của một tác gia lớn như Kim Dung. Nhà tư tưởng luôn luôn suy tư về một điều duy nhất. Cho nên dẫu ta có thống kê "tư tưởng 11 họ thành một loạt danh sách dài các chủ đề một cách thật khoa học, nhìn bề ngoài tưởng chừng như phong phú lắm, thì thực chất đó vẫn là các mãng rời rạc và là lớp da hời hợt bên ngoài. Đó là những nhà nghiên cứu dừng ở mức độ đăng đường (lên thềm ), những Chu Chỉ Nhược với võ công biến hoá phức tạp của Cửu Âm Chân Kinh nhưng lại thiếu phần nội lực! Điều quan trọng là phải đập vỡ được xương và ăn được tuỷ. Chính cái tuỷ đó mới là dưỡng chất cho các nhận định thâm viễn hoằng đại. Mà không phải nhà nghiên cứu nào cũng có thể làm được việc này nếu không mang một tâm hồn thông tuệ, ứng hợp cơ duyên và có những đôi mắt "soi thủng cả tấm da trâu" của Dược Sơn Duy Nghiễm hoặc những "cặp mắt trong nghìn thu " của Tô Đông Pha . Chính những đôi mắt ấy mới nhìn ra được dòng ẩn lưu nằm xuyên suốt tất cả các tác phẩm của các thiên tài suốt dưới vòm trời kim cổ, mới thu nhiếp mọi vấn đề về một mối theo lẽ " Nhất dĩ quán chi " (dùng lẽ một để xuyên suốt tất cả )
142
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
của Khổng Tử. Đó là những nhà nghiên cứu nhập thất (đã vào sâu được trong nhà ) (như Hoài Thanh với cõi thơ tiền chiến Việt Nam, Nhượng Tống với Nam Hoa kinh, Bùi Giáng với truyện Kiều...).
Tôi chỉ là kẻ hậu sinh, may mắn có chút cơ duyên với chữ nghĩa và mê đọc Kim Dung, nên cũng tập tành cách đứng quanh quẩn ngoài sân trước ngôi nhà ông, chưa dám nói chi đến chuyện đăng đường. Nhưng với một chút lòng thiên ái, tôi muốn để cập đến hai nhà bình phẩm bậc thầy về Kim Dung, mà theo tôi là đã thực sự nhập thất: đó là Bùi Giáng và Đỗ Long Vân. Trong số các nhà nghiên cứu về Kim Dung mà tôi được đọc, thì họ là những nhà bình phẩm Kim Dung kiệt xuất mà cho đến ngày nay tôi vẫn còn giữ nguyên niềm kính mộ.
Nhà biên khảo Đỗ Long Vân đã được giới nghiên cứu biết đến từ lâu qua tác phẩm tuyệt hảo "Trương Vô Kị giữa chúng ta hay Hiện tượng Kim Dung 11 (NXB Trình bày, Sài gòn, 1968). Nhưng người đọc có thể ngạc nhiên khi nghe nhắc đến nhà thơ Bùi Giáng, vì ông nổi tiếng ở nhiều lĩnh vực nhưng lại không có một tác phẩm hoặc một bài viết hoàn chỉnh nào về Kim Dung cả. Những nhận định của Bùi Giáng về Kim Dung, về Ngọa Long Sinh thường rất ngắn, chỉ vài trang thậm chí chỉ vài dòng, và nằm rải rác, tản mạn đâu đó ở những phần phụ lục của các cuốn sách biên khảo của ông về thi ca và tư tưởng. Các bậc chân nhân phương Đông thường không nói nhiều về những điều tâm đắc. Họ chỉ đơn giản nói dăm ba câu. Và dăm ba câu đó có khi trở thành nền tảng cho các học thuyết của hậu duệ đời sau. Manh Tử, Vương Dương Minh... có viết hàng vạn lời cũng chỉ nhằm để khoáng diễn thêm một vài câu nói cực kì đơn sơ của Khổng Tử. Sáu trăm quyển kinh Đại Phẩm Bát Nhã chỉ là những lời chú giải cho một chữ Không (sunyata) trong tư tưởng Phật Giáo Đại Thừa. Nhiều khi muốn tìm hiểu tư tưởng các triết gia Đông Phương, người ta lại thường phải tìm hiểu chúng qua các thứ không chính thống như thư từ, những lời tựa lời bạt mà họ viết cho các tác phẩm của bạn bè. Cũng thế, những nhận định rải rác của Bùi Giáng lắm khi lại nêu lên được những vấn đề trầm trọng trong tư tưởng Kim Dung.
Một chú tiểu Trương Quân Bảo trong Ỷ thiên Đồ long ký chỉ cần dùng những ngọn quyền nhập môn sơ đẳng của phái Thiếu Lâm cũng đủ đánh bại tay kiếm khách tuyệt đại Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo, một điều mà các bậc đại sư cao thủ cuả La Hán Đường không làm nỗi! Đó chính là trường hợp của Bùi Giáng. Nơi khách võ lâm,
143
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
điều đó có được là nhờ ở nội lực cùng cực cao thâm của huyền môn chính tông tâm pháp. Còn ở nhà thơ, nhà biên khảo là nhờ ở cỗi nguồn trường mộng ở nội tâm . Những trang viết lai rai của Bùi Giáng về Kim Dung nằm trong mạch ngầm thăm thẳm của tư tưởng Đông Phưong. Ông cũng đã từng dịch một phần nhỏ cuốn Kim kiếm điêu linh của Ngoạ Long Sinh. Bùi Giáng có một cái nhìn rất lạ về tác phẩm Kim Dung nói riêng và sách võ hiệp nói chung. Tôi xin trích một vài nhận định của ông:
"Đọc truyện vũ hiệp là một trong những phép tu dưỡng kỷ ức và khơi dẫn nguồn vui ẩn mật trong mình. Đọc theo lối hồn nhiên, hoặc vừa đọc vừa suy gẫm. Chưởng lực; kiếm thê, nội kình phát ra có thể là tinh thể của tinh thần phát hiện.
Riêng đối với bạn thi sĩ, sách vũ hiệp có thể giúp bạn làm thơ lai láng một cách không ngờ. Điều đó không có chi lạ: ban sơ vũ học, văn học, thi nhạc cùng phát khởi tại một cỗi nguồn: uyên nguyên của tinh thần xuất phóng11
"Hình như ông Kim Dung lúc trực tiếp đưa ý kiến của mình đối với sách về sách vũ hiệp, ông có ý để lẫn bóng phần hoằng viễn trong sách ông, cũng như sách vũ hiệp nói chung. Đó lại là một dịp khiến ta suy gẫm lại phép lập ngôn 11 hình nhi hạ 11 của Nguyễn Du với nàng Kiều"
"Những kiệt tác của Ngọa Long Sinh đi song song với Kim Dung và Gia Cát Thanh Vân - thực hiện một cuộc chuyển biến dị thường trong lịch sử văn học tư tưởng Trung Hoa 11
Nhận định về Thiên Long Bát Bộ, ông nói:
"Để ba người [ tức Tiêu Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc ] kết nghĩa anh em, Kim Dung đã xây dựng tác phẩm trong mối tư lường sâu xa về Tồn thể uyên nguyên 11
Khác với phong cách hí ngữ lộng ngôn ỡm ờ của Bùi Giáng, Đỗ Long Vân là nhà nghiên cứu Kim Dung một cách nghiêm túc bằng văn phong rất mực tài hoa. Theo chỗ tôi được biết thì Đỗ Long Vân không đọc được nguyên tác, mà chỉ đọc Kim Dung qua bản dịch. Mà đã là bản dịch thì không thể nào chuyển tải trọn ven được nội dung thâm sâu của nguyên tác, cho dẫu là của một dịch giả tài ba. Thế nhưng
144
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
những bản dịch không làm ảnh hưởng gì đến tư tưởng thâm viễn của ông. Đúng như ông Bùi Giáng nhận định:
11 Ông Đỗ Long Vân nhận định thâm viễn khoảng vắng lặng vô ngôn trong sách vũ hiệp.... Những khuyết điểm của bản dịch không làm trở ngại Đỗ Long Vân. Vì những kẻ tư tưởng chân thành, vốn thường nhận ra rất mau những gì gọi là 11 Ỷ tại ngôn ngoại 11 - hoặc "huyền ngoại chi âm" - hoặc "ngôn tại thử nhi Ỷ tại bỉ11
Một cung bậc vang lên và tâm hồn kẻ tài hoa mở ra đón nhận rất nhanh những dư hưởng đồng điệu. Những nhận định của Đỗ Long Vân về nội lực, về nguyên lý võ học, về võ học và cơ cấu luận... đều bắt nguồn từ cái nhìn sâu thẳm vào tinh thể tinh yếu của vấn đề, và gợi cho người đọc rất nhiều dư hưởng mênh mông khác vọng về từ các kiệt tác kim cổ Đông Tây. Những trang viết trầm ổn túc mục của ông về sách võ hiệp đã đặt tư tưởng Kim Dung vào giưã ngã ba Tam Giáo của Đông Phương để mở ra được cuộc hội thoại chân chính với Tây Phương.
Đỗ Long Vân vốn là người thâm cứu văn học Tây Phương, được đào tạo tại Pháp, nhưng tâm hồn ông lại hoà điệu và rất gần gũi với suối nguồn Đông Phương Sơ Thủy, nên dễ dàng thể hội phần tinh tuý hoằng viễn trong tư tưởng Kim Dung bằng những suy niệm chân thành. Ông là kẻ tài hoa bạc mệnh với một số phận vô cùng cay đắng. Ông đã nằm xuống, lặng lẽ và vô danh như tất cả những gì thực sự vĩ đại trong cuộc đời này, nhưng tác phẩm Trương Vô Kị giữa chúng ta của ông sẽ mãi mãi sừng sững như ngọn Hy Mã Lạp Sơn trong làng sách nghiên cứu Kim Dung tại Việt Nam, mặc dù hiện nay ngọn núi hùng vĩ kia còn đang nằm ẩn khuất sau quá nhiều lớp mây mù. Và với một chút chủ quan, tôi cho rằng nó sẽ là kim chỉ nam trong mai sau cho những người nào muốn nghiên cứu tư tưởng Kim Dung trong mối tương quan với mạch ngầm nội tại của tư tưởng Đông phương.
Chúng ta cùng thử nghe Bùi Giáng nói về Đỗ Long Vân, để cho một tài năng lớn nhận định về một tài năng lớn:
11 Cuốn sách ông bàn về Kim Dung nằm trong vùng tư tưởng thâm viễn như cuốn Nho giáo của Trần Trọng Kim, Chẳng những giúp người Việt Nam hiểu tư tưởng lớn của thiên tài Trung Hoa, mà còn khiến người Trung Hoa người Đông Phương Tây Phương nói chung ngày sau
145
Tuongduongthanh.blogspot.com
Lai rai chén rượu giang hồ
Huỳnh Ngọc Chiến
Sực tỉnh. Tầm quan trọng của cuốn sách kia quả thật rộng rãi không cùng.
Tôi có thể đưa ra vài nhận định khác ông ở đôi chi tiết. Nhưng không cần. Điều cốt yếu ông đã nói xong, và những dư vang vô số sẽ toả khắp mọi chốn. Và sẽ còn khiến người ta thể hội cái mạch thẳm trong những tác phẩm của những thiên tài xưa nay, bất luận là Đông Phưng hay Tây Phương.
Sách tôi bị cháy hết, nhưng tôi sẽ tìm riêng cuốn Trương Vô Kị giữa chúng ta để đọc lại".
Những lời trên phải chăng đã nói được rất nhiều? Và bài viết nhỏ này xin được xem như một nén tâm hương thắp lên để tưởng nhớ hai nhà bình phẩm Kim Dung kiệt xuất.
0 nhận xét: