Cái dở của bản dịch Cao Tự Thanh là lột sạch tiếng Hán, khoe tài hiểu tiếng Trung của mình chứ không hiểu biết về văn hóa Việt Nam. Dịch kiểu này thì giống như cái máy dịch chứ không phải là một dịch giả. Tất cả những bài thơ đều bị dịch ra tiếng Việt. May là những chiêu võ chưa bị dịch ra, có lẽ vì cái bóng Hàn Giang Nhạn còn lớn quá. Bực mình nhất là câu đối của Hoàng Dung với thư sinh Độc trong Ngư Tiều Canh Độc của Nhất Đăng đại sự cũng bị dịch ra, làm không ai hiểu cái gì hay nữa.
Thí dụ như câu sau đây, không thấy có gì hay hết:
Thư sinh vung quạt chỉ vào rặng cây cọ, nói: -Gió thổi cau lay, Phật ngàn tay khua quạt tập điệp. Hoàng Dung chỉ vào chiếc khăn tiêu dao trên đầu y nói: -Được, câu đối của ta là sương sa sen héo, quỷ một cẳng đội khăn tiêu dao.
Rồi câu này nữa:
-Ta còn có một vế đối xin tiểu cô nương đối: Cầm sắt tỳ bà, tám đại vương thảy bày diện mạo. Hoàng Dung cười nói: -Nếu đã như thế thì ta xin lỗi trước, xin đối lại thế này: Ly mỵ võng lượng, bốn tiểu quỷ đều có ruột gan.
Vậy thì dịch thế nào, hiểu thế nào mới đúng? Tr cũng muốn viết ra cái mình hiểu nhưng thấy trong cái link này có nói rõ rồi nên copy nguyên văn thôi: http://www.luongson.net/forum/showthread.php?t=134260832. Xin quý vị coi trong này.
Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung bàn về các nhân vật giang hồ và cuộc đời hành hiệp của họ. Các nhân vật này chủ yếu dùng võ công để giải quyết mâu thuẫn với nhau. Tuy nhiên bằng ngòi bút tài hoa của mình, Kim Dung đã đan vào đó nào là đó nào là ca, từ, phú, lục, cầm, kì, thi, hoạ v.v… Vì vậy các tác phẩm không còn là những pha đánh nhau đơn thuần mà nó mang đậm màu sắc nghệ thuật, dễ lôi cuốn và thu hút độc giả hơn. Đặc biệt và thú vị nhất là giai thoại về đối chữ trong tác phẩm “Xạ Điêu Anh Hùng Truyện” giữa Hoàng Dung và trạng Nguyên Thư Sinh Chu Tử Liễu, y chính là ông Độc, một trong bốn đệ tử Tiều, Ngư, Canh, Độc của Nam Đế Nhất Đăng Đại Sư. Truyện "Giai Thoại Đối Chữ Trong Tiểu Thuyết Kim Dung" được copy từ Diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Chuyện kể sau khi Hoàng Dung bị đả thương bởi Thiết chưởng Thuỷ Thượng Phiêu Cừu Thiên Nhẫnthì được Quách Tĩnh đưa đến núi Đào Nguyên tìm Nhất Đăng Đại Sư xin trị thương vì chỉ có võ công Nhất Dương Chỉ của ông mới có thể trị được vết thương của Hoàng Dung. Nhất Đăng Đại Sư trước kia chính là Đoàn Chính Hưng, là vua Đại Lí nhưng lúc này không đã từ bỏ ngai vàng, xuất gia đầu phật. Đi theo ông có bốn vị đại thần và cũng là đệ tử của ông. Họ đều có võ công cao cường, được mệnh danh là Tiều, Ngư, Canh, Độc. Trong số đó, ông Độc tức trạng Nguyên thư sinh Chu Tử Liễu võ công cao nhất và công là trạng nguyên Đại Lí nên văn võ song toàn. Truyện "Giai Thoại Đối Chữ Trong Tiểu Thuyết Kim Dung" được copy từ Diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Khi Quách Tĩnh và Hoàng Dung đến, họ ngỡ là địch thủ đến tìm nên Ngư, Tiều, Canh, Độc ra sức ngăn cản không cho họ gặp Nhất Đăng Đại Sư. Tuy nhiên sau một hồi đấu trí và đấu võ Quách Tĩnh và Hoàng Dung đã vượt qua được Ngư, Tiều, Canh và bước sang gặp Trạng nguyên Thư sinh Chu Tử Liễu.
Tại đây, họ thấy một thư sinh đang ngồi đọc sách và cản đường họ, y chính là Chu Tử Liễu. Lúc này ông đang ngồi đọc sách “Luận Ngữ”, vừa đọc vừa ngân nga rung đùi, ra chiều đắc ý lắm, ông đang đọc đến đoạn: “Mạc xuân giả, xuân phục kỳ thành. Quán giả ngu lục nhân đồng tử lục thất nhân, dục hồ nghi, phong hồ vũ vu, vinh nhi quy.”
Hoàng Dung biết rằng đây là một cao thủ văn võ song toàn hơn hẳn những đối thủ trước nhưng với bản chất phóng khoáng tinh nghịch, bất chấp mọi hiểm nguy sắp xảy ra, cô nói với hư sinh rằng: “Đọc sách có vẻ hay lắm, chăm chú lắm nhưng không biết bên trong có thấu hiểu hết ý nghĩa của thánh hiền không? Nếu không thì đọc cho lắm cũng uổng sách quí thôi”, rồi cô lại hỏi: “Vậy ngài có biết môn đệ của Khổng Tử có mấy người không?”
Thư sinh vui vẻ đáp: “Có gì mà không biết. Đệ tử của người có ba ngàn mà những vị đã thành danh được 72 người chẵn.”
Hoàng Dung lại hỏi: “trong số 72 vị ấy, già có trẻ có nhưng thử hỏi mấy vị già nhất, mấy vị trẻ nhất.”
Đến lúc này, thư sinh lộ vẻ ngạc nhiên: “Trong “Luận Ngữ” không ghi điều ấy và xét trong các kinh khác cũng không thấy dạy, làm sao trả lời cho được.”
Hoàng Dung cười nói: “Chính vì vậy mà tôi mới chê ông đọc “Luận Ngữ” mà không hiểu được chút ý nghĩa nào. Lúc nãy tôi nghe ông đọc mãi đoạn quán giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân. Theo ý tôi thì ngũ lục nhân là 5 nhân với 6, chứ không phải là năm sáu người. nếu đem 5 nhân với 6 thành 30 người quán nhân(người già). Cộng với 42 đồng tử (trẻ con) là 72 người chẵn. Như vậy, kể cả số đầu số đầu sổ và số ít tuổi không phải 72, thất thập nhị hiền nhân là gì?”
Theo ý Hoàng Dung, chữ “nhân” ở đay không phải nghĩa là người mà có nghĩa là phép nhân. “Luận Ngữ” có thể nói là sách gối đầu của những người theo Nho học. Theo chế độ khoc cử Phong kiến ngày trước, Tứ thư, Ngũ kinh là những loại sách mà thí sinh phải thuộc làu ngay từ lúc tóc mới để chỏm. Thế mà không ai nghĩ chữ nhân theo nghĩa phép nhân. Kim Dung đã áp dụng những ý tưởng độc đáo này trong tác phẩm của mình. Truyện "Giai Thoại Đối Chữ Trong Tiểu Thuyết Kim Dung" được copy từ Diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Chu Tử Liễu vốn lớn tuổi, học hành đã nhiều lại bị cô bé bắt bẻ nên vừa giận vừa tức cười. Tuy nhiên, ông lại ra cho Hoàng Dung ba câu đố, nếu cô trả lời được tất cả sẽ đưa cô đến gặp Nhất Đăng Đại Sư. Trong đó, câu đầu nói rõ lai lịch xuất thân của ông ta. Câu đó như sau:
Lục kinh uẩn tịch hưng trung cữu
Lục kinh tu học suốt bao năm
Nhất kiếm thập niên, ma tại thủ
Một kiếm mười năm, mài sắc bén
Hạnh hoa đầu thượng nhất chi hoành
Trên đầu bông hạnh cành nằm ngang
Khủng tiết thiên cơ mạc lộ khẩu
Sợ lộ thiên cơ không dám nói
Nhất điểm luy luy đại như đẩu
Thứ gì hợp thành cái đấu lớn
Khước yểm bán sàng vô sở hữu
Không che hết được nửa cái giường
Hoàn danh trực đãi quải quán quy
Vẹn chữ công danh trả mũ về
Bản lai diện mục quân tri phủ?
Vậy người biết chăng ta là ai?
Trong câu đầu, nếu trích lấy chữ Lục (sáu), tiếp theo đầu câu 2 chữ Nhất (một ) và cả chữ Thập (mười ). Ghép 3 chữ theo thứ tự từ trên xuống sẽ là chữ Tân (một quẻ trong Thiên Can).
Trong câu thứ 3, trên đầu chữ Hạnh có cành nằm ngang tức là thêm một nét ngang ở trên chữ Hạnh. Rồi theo câu 4, sợ lộ thiên cơ không dám mở miệng tức là bỏ chữ Khẩu trong chữ Hạnh ở câu 3 đi. Cuối cùng ta được chữ Vị hay Mùi
Tại câu 6, nửa cái giường tức là một nửa chữ Sàng được chữ Tường.Trở lại câu 5, hợp lại thành cái đấu lớn tức là chữ Đại có thêm một chấm lớn bằng cái đấu, tức là chữ Khuyển . Cả hai câu 5,6 ghép chữ Tường với chữ Khuyển thành chữ Trạng
Câu 7, trả mũ về tức là chữ Hoàn bỏ mũ đi là chữ Nguyên
Vậy ghép lại 8 câu ta được chữ Tân Mùi Trạng Nguyên
Hoàng Dung trả lời ngay lai lịch ông ta là Trạng Nguyên Đại Lí năm Tân Mùi Chu Tử Liễu. Chu Tử Liễu vô cùng kinh ngạc. Ông ta gói ghém cả lí lịch của mình trong 8 câu thơ, dù người thông minh đến đâu cũng phải suy nghĩ nửa ngày trời, ấy vậy mà Hoàng Dung trong chốc lát đã nghĩ ra. Lần này, ông quyết nghĩ ra câu đối thật khó, có như thế mới có thể thắng nổi Hoàng Dung. Ông chợt thấy bên kia sườn núi có mấy cây cọ đang phất phơ trong gió, lá rụng xào xạc, cành nọ đập cành kia giống như cái quạt lông, ông ta hững chí quạt lên vài cái để hoà nhịp với nguồn thơ và ra câu đối:
Phong bãi tông lư, thiên thủ phật dao chiết điệp phiến
Gío lay cành cọ, phật ngàn tay phe phẩy quạt lá
Câu này tuy tức cảnh làm thơ nhưng muốn phô trương danh phận phi thường cao cả của Trạng Nguyên. Hoàng Dung lại nghĩ, nếu chỉ dùng chữ để đối đáp thì dễ nhưng thiếu nghĩa điển tích, cần phải kiếm sự việc nào đối lại nhưng phải chọc tức vị Trạng Nguyên cho hả dạ. Nàng nhìn phía xa xa, sau lưng Chu Tử Liễu đang ngồi, ẩn hiện lờ mờ mấy toà miếu, phía trước có những lá sen đàu tháng 7, đã bắt đầu lụi tàn. Nàng liền đối trả:
Sương điêu hà diệp, độc cước quỉ đái tiêu dao cân
Sương nhuốm lá sen, quỉ một chân đội mũ tiêu dao
Hoàng Dung đã dùng:
Phong bãi tông lư đối với Sương điêu hà diệp
Thiên thủ phật đối với độc cước quỷ
Dao chiết điệp phiến đối với đái tiêu dao cân
Thật là chỉnh, sát nghĩa rất hay mà lại xỏ ngọt vị thư sinh Chu Tử Liễu như quỷ một chân. Thư sinh vừa thán phục Hoàng Dung vừa lo rằng: Nếu tiếp tục lấy những điển tích bình thường trong sách vở thì thế nào Hoàng Dung cũng đối được. Ông chợt nhớ ngày xưa lúc còn đi học, thầy ông có ra một câu đối mà đến nay ông vẫn chưa biết câu trả lời, câu đối như sau:
Cầm, sắt, tỳ, bà, bát đại vương, nhất ban đầu diện.
Câu đối này thật khó nhưng Hoang Dung đã nghĩ ra câu đối và hết sức tinh nghịch, cô nói: “Thưa ngài, vừa rồi tôi mượn hình dạng của ngài để trả lời câu dối, được ngài khen ngợi. Nay tôi có thể mượn cả bốn huynh đệ ngài để làm ý cho câu đối được không?”
Chu Tử Liễu nghe xong nghĩ rằng vừa rồi Hoàng Dung đã ví ông ta như quỷ một chân, nay lại không biết đem cả bốn huynh đệ ông ta ra châm biếm gì nữa đây? chắc là cô ta không đối được nên mới tìm cớ vòi vĩnh. Việc này cũng không hại gì, ngay cả một Trạng Nguyên như ông ta mà mất bao nhiêu năm nay vẫn không đối được. Cuối cùng ông ta đồng ý.
Thế là Hoàng Dung liền ngâm lớn trả lời:
Si, mi, võng, lượng, tứ tiểu quỷ, các tự đỗ tràng
Lần cuối cùng này, câu đối khó mà câu trả lời còn tuyệt duyệt hơn nhiều. Hoàng Dung đã dùng:
Cầm, sắt, tỳ, bà đối với Si, mị, võng, lượng
Bát đại Vương đối với tứ tiểu quỷ
Nhất ban đầu diện đối với các tự đỗ tràng
Cầm, sắt, tỳ, bà là tên bốn loại nhạc cụ. Trong tên mỗi loại đều có hai chữ Vươngtrên đầu, tổng cộng có 8 chữ Vương (bát đại vương).
Còn Si, mi, võng, lượng là tên 4 loài quỷ. Trong tên mỗi loài quỷ đều có một chữ quỷ đứng trước, tổng cộng có 4 chữ quỷ (tứ tiểu quỷ).
Tìm ra những chữ tiếng Hán nói về một tính chất, một sự việc có cấu trúc giống nhau đã khó mà dùng nó đối chữ lại càng khó hơn. Thế mà Hoàng Dungđã nghĩ ra mà còn có thể châm biếm cả vị trạng nguyên.
Cái tài của Hoàng Dung cũng là cái tài của Kim Dung. Với bút pháp tài hoa, điêu luyện của mình, ông đã thi vị hoá tác phẩm của mình, làm cho tác phẩm hay hơn, đẹp hơn và thanh nhã hơn. Đây là điều mà các tác phẩm võ hiệp khác cũng như các tác phẩm giải trí bình dân khác khó lòng đạt được.
Từ Thành Trí Dũng
******************************
Lúc đầu tôi định đánh luôn nguyên văn câu thơ, các từ ngữ bằng tiếng Hán nhưng không biết trang Web có hỗ trợ Font Hán Unicode khộng Mong các bạn thông cảm!
Chú ý nếu google mấy chữ "Cầm sắc tỳ bà bát đại vương" sẽ thấy nhiều người được gán cho cái giai thoại giải câu đối này lắm như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Văn Giai. Nói chung tìm ra người tác giả thật sự thì không dễ nếu không nói là không thể.
Nghe mấy câu đối hay như vậy mà dịch một cách trần truồng ra tiếng Việt như vậy đủ thấy trình độ dịch giả quả là ngô nghê. Không lẽ bây giờ đi học tiếng Hoa để dịch những tác phẩm mình thích lại?
0 nhận xét: