Rất nhiều người mê truyện võ hiệp đều biết được Võ lâm ngũ bá truyện là một bộ đoản thiên gồm bốn cuốn của Kim Dung1. Đây là bộ tiểu thuyết làm nền móng để ông xây dựng liên tiếp ba bộ truyện kế tiếp: Xạ điêu anh hùng truyện, Thần điêu hiệp lữ và Ỷ thiên Đồ long ký. Bộ đoản thiên tiểu thuyết ấy có giá trị như một đoạn lung khởi trong một bài tác văn, nhằm giới thiệu năm vị bá chủ của võ lâm. Nếu thu hẹp thì người đọc chỉ hiểu như đó là giới võ lâm Trung Hoa, một Trung Hoa với nhiều môn phái võ thuật lạ lùng, có những nhân tài võ học kiệt xuất. Nhưng có lẽ Kim Dung đã không muốn thu hẹp. ông đã truyền đến cho ngữời đọc một dụ ngôn lớn lao hơn - dụ ngon chính trị.
Trong Võ lâm ngũ bá, Kim Dung giới thiệu năm nhân vật đại võ sư: Đông tà Hoàng Dược sư, Tây độc Âu Dương Phong, Nam Đế Nhất Đăng đại sư, Bắc cái Hong Thất công và Trung thần thông vương Trùng Dương.
Đông tà Hoàng Dược sư ngự trị ở Đào hoa đảo. Nếu lấy Trung Hoa làm điểm giữa thì Đào hoa đảo chính là nước Nhật Bản và Hoàng Dược sư chính là biểu tượng của dân tộc Nhật Bản vậy. Thế nhưng chẳng hiểu vì sao Kim Dung lại gọi Nhật Bản là "tà". Cổ lẽ trong tâm tưởng của ông và hang tỉ người Trung Quoc khác vẫn chưa phai mờ hình ảnh của những đội quân Nhật Bản xâm lăng, giết chóc, hãm hại hàng triệu người dân Trung Quốc, đặc biệt là sự hiện diện của quân đoàn Quan Đông trên mien Đông Bắc của Trung Quốc trong thế chien thứ hai. Đông tà Hoàng Dược sư có một loại vo công kỳ ảo như tên gọi cua nó: Lạc anh chưởng pháp (chưởng pháp hoa anh đào rụng). Trong Võ lâm ngũ bá, Kim Dung rất ca ngợĩ Hoàng Dược sư, ca ngợi tính lập dị cô quái của nhân vật này.
Tây độc Âu Dương Phong từ Tây vực xuống. Khái niệm Tây vực không xác định biên giới quốc gia. Âu Dương Phong có nghĩa là ngọn gió biển phía trời Âu thổi đến và ta có thể hieu được nhân vật nay chính là hình tượng biểu thị cho cả khối châu Âu, cả văn minh khoa học kỹ thuật châu Âu. Âu Dương Phong có môn Hàm mô công (công phu mô phỏng tư thế con ếch), ngồi xuống đất, dạng chân ra và phát chưởng về phía trước. Tư thế của Hàm mô công nhắc người ta nhớ đến hình anh chiếc xe tăng của binh lực các nước châu Âu trong đệ nhị thế chiến. Hãy nhớ rằng trong Xạ điêu anh hùng truyện sau này, Kim Dung để cho Ầu Dương Phong luyện tạp võ công sai đường, bị tẩu hoả nhập ma, phải đi lộn đầu xuống đất, chân đưa lên trời. Dụ ngôn ở đây thật rõ ràng: van minh vật chất, khoa học kỹ thuật phương Tây quá tiến bộ đã làm đảo lộn hết mọi giá trị tinh thần, cả châu Âu đang "tẩu hoa nhập ma" vì chính cái cơ tâm của họ.
1 Tác giả nhầm. Theo niên biểu Kim Dung in trong cuốn Kim Dung - tác phẩm và dư luận do NXB Văn học ấn hành không thấy nói Võ lâm ngũ bá là tác phẩm của Kim Dung. Xạ điêu anh hùng truyện là bộ tiểu thuyết thứ ba Kim Dung sáng tác năm 1957,' sau Thư kiếm ân cừu lục và Bích huyết kiếm. Độc giả có thể xem Tiểu sử Kim Dung trên vietkiem.com và cuốn Kìm Dung - tác phẩm và dư luận để biết thêm chi tiết.
Nam đế là Nhất Đăng đại sư2. Nhân vật này trong Võ lâm ngũ bá là một nhà sư hiền lành, đắc đạo. Đây la hình ảnh biểu tữợng chung cho các nước theo Phật giáo tai Đông Nam Á, trong đó có cả Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Sri Lanka, và Ấn Độ. Nhà sư hiền lành ấy sử dụng một loại công phu huyền môn chính tông, rất quang minh chính đại: Nhất dương chỉ. Nhà sư hiền lành ấy không gây hấn với ai, không tranh hơi đua tiếng với ai. Kim Dung nghĩ đến các lân quốc ở phía nam đất nước của ông bằng tình cam hết sức tốt đẹp. Rõ ràng là Phật tính đã được thể hiện rất cao trong tư duy, trong hành động của nhà sư này.
Bắc cái có tên là Hồng Thất công, chính là hình ảnh biểu tượng của nước Liên Xô ngày nào. Hồng Thất công mang họ Hồng (màu đỏ) chính là màu cờ Liên xô, lân quốc phía bắc Trung Hoa. Hong Thất công có Hàng lóng thập bát chưởng, một loại võ công dương cương có thể làm tan bia vỡ đá, gãy cả tùng bách. Hàng long thập bát chưởng là gì nếu không phải là những hoả tiễn3 4, thành tựu lớn nhat về vũ khí của Liên Xo.
Trung thần thông vương Trùng Dương chính là hình ảnh biểu tượng của đất nước Trung Quốc. Trong Võ lâm ngũ bá, vương Trùng Dương ít khi xuất hiện, chỉ được kể lại qua miệng cua những nhân vật khác5, văn minh Trung Hoa kín ke, thâm hậu vậy chăng? vương Trùng Dương ở trong Trùng Dương cung, là sư tổ của phái Toàn Chân - chân lý toàn thiện nhất. Nhưng người đọc không thể nắm bắt được chân lý ấy, chỉ thấy một đại diện của phái Toàn Chân - Lão ngoan đồng Chu Bá Thông - dở tỉnh dở điên^ nửa già nửa trẻ nít, suốt đời rong chơi, phá phách giang hồ. Về sau, trong Xạ điêu anh hùng truyện, Chu Bá Thông sáng tạo ra một loại võ công ngộ nghĩnh: Song thủ hỗ bác (hai tay vừa giúp nhau, vừa đánh nhau), văn minh, triết học Trung Quốc bị tác giả Kim Dung cười cợt: cùng một lúc tay trái vẽ hình tròn, tay phải vẽ hình vuông. Tất cả những điều mà tác giả không lý giải được về Trung Quốc thì Chu Bá Thông xuất hiện, lý giải giùm.
Võ lâm ngũ bá chính là một dạng dụ ngôn về chính trị. Khi thấy dụ ngôn ấy chưa thể (hoặc không thể) đi sâu vẩo lòng người, Kim Dung rời bỏ phong cach dụ ngôn, trở lại phong cach tiểu thuyết võ hiặp đích thực. Tác giả để cho cặp trai gái Quách Tỉnh, Hoàng Dung gặp gỡ và học Hồng Thất công, dùng Hàng long thập bát chưởng đánh quân Nguyên, giữ gìn đất nước Trung Quốc. Nhưng đó là chuyện khác, chuyện được kể trong Xạ điêu anh hùng truyện...
2 Võ lâm ngũ bá kết thúc ờ lần luận kiếm thứ nhất trên Hoa Sơn. Khi đó Nam đế vẫn là Hoàng đế Đại Lý, chứ chưa xuất gia đầu Phật, nên gọi là Đoàn hoàng gia (Đoàn Tri Hưng) chứ không phải là Nhất Đăng đại sư.
3 Có lẽ tác giả muốn nhắc tới tên lửa Cachiusa, một loại dàn phóng rocket có uy lực và sức công phá rất lớn mà Liên Xô đã sử dụng trong Thế chiến II. Hoặc giả đây là tên lửa Sputnik, tên lửa đầu tiên đi vào vũ trụ, được Liên Xô phóng thành cồng năm 1957 (cũng trong năm này, Kim Dung bắt đầu viết Xạ điêu anh hùng truyện).
4 Trong Võ lâm ngũ bá, Vương Trùng Dương là nhân vật chinh xuyên suốt bộ truyện, câu chuyện khởi đầu từ khi Vương Trùng Dương còn là một cậu bé được một đạo sĩ day võ công cho tới khi dành gianh hiệu Trung thần
thông trên đỉnh Hoa Sơn.
Vũ Đức Sao Biển
Kiếm Luận
Trong chiến tranh cổ điển, kiếm (gươm) là một vũ khí tiện lợi nhất. Tuy không cùng học một loại binh thư nhưng các dân tộc đã biết chung một kinh nghiệm chiến tranh: dùng kiếm để đánh gần và dùng cung để bắn xa. Lịch sử chiến tranh của nhân loại cho biết kiếm được rèn ở thành Bagdad (lúc bấy giờ thuộc Ba Tư - Perse) là loại kiếm danh tiếng nhất, có kỹ thuật rèn cao cường nhat. và đây là những lưỡi đà kiếm, có hình cong hình lưỡi liềm. Kiếm trong truyện võ hiệp Kim Dung cũng không đi ra khỏi kinh nghiệm ấy. Kiếm quan trọng đến nỗi nhiểu khi, những tác phẩm võ hiệp của ông được người đời gọi là truyện kiếm hiệp - truyện về những người hành hiệp cứu đời bằng lưỡi kiếm.
Có những tác phẩm của ông đã khắc họa vai trò cao cả của lưỡi kiếm. Đó là trường hợp bộ Ỷ thiên Đồ long ký. Trong năm chữ, thì đã có hai chữ Ỷ thiên là tên gọi của mọt thanh kiếm báu mà theo tác giả, được đúc bằng thép nguyên chất pha lẫn platin và trong thân kiếm có cất dấu một pho bảo lục: bộ cửu Âm Chân Kinh. Tiếu ngạo giang ho ký cũng là một tác phẩm đồ sộ nói về câỹ kiếm với những phái sử dụng kiếm gọi là Ngũ nhạc kiếm phái: Tung sơn, Thái sơn, Hành Sơn, Hoa sơn, Hằng Sơn. Bộ Liên Thành Quyết là một bộ tiểu thuyết viết về một pho kiếm pháp mà bài kiếm quyết là một bài thớ; thầy đã cồ dạy sai cho học trò để che dấu lời hướng dẫn đi tìm một kho báu lớn có giá trị liên thành. Ngoài ra, trong 11 bộ tiểu thuyết, luôn luôn xuất hiện người sử kiếm (kiếm sì) và kiếm sĩ luôn luổn nhiều hơn những bọn hào sĩ giang hồ sử dụng những loại vũ khí khác.
Về mặt chất liệu làm kiếm, Kim Dung nói đến loại kiếm sắt, kiếm gỗ, kiếm vàng và kiếm pha hợp kim. Kiếm thông thường là kiếm sắt nhưng Kim Dung lại thường đe cập đến một loại sắt thép đặc biệt rất bén, chém sắt như chém bùn. Trương Tam Phong, tức Trương Quân Bảo, dùng một cây kiếm gỗ hành hiệp gọi là Chan võ, thành danh và trở thanh tổ sứ phái Võ Đang. Bọn thay thuốc nhữ Ho Thanh Ngưu, Bình Nhất Chỉ có cây đoản kiếm bằng vàng, chắc là để dùng trong khi mổ xẻ. Đặc biệt, kiếm Ỷ thiên như đã nói là một hợp kim gồm thép và platin và phải dùng đển đao Đồ long chém thì cả đao với kiếm mới cùng gẫy. Bọn đệ tử Minh giáo kiếm được thanh kiếm Ỷ thiên gãy, đã dùng kỹ thuật luyện kim đặc biẹt của Ba Tư để ráp kiếm lại và trong động tác ráp nối quyết định, còn thêm cả máu người vào. Chi tiết này thật hoang đường nhưng cực kỳ thú vị, không khỏi khiến bạn đọc nghĩ đến huyền thoại hai thanh kiem thời Chiến quốc: Can tương và Mạc gia (còn gọi là Mạc Tà).
Về tính chất, truyện võ hiệp Kim Dung đề cập đến hai loại kiếm: cương kiếm (kiếm rắn) và nhu kiếm (kiếm niềm). Trong Tiếu Ngạo Giang Hố Ký, Tiêu Tuơng Dạ Vũ Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn Hành sơn, có cây kiếm mỏng như lá lúa, rút ra cầm tay thì mềm oặt nhưng khi vận công vào thì lưỡi kiếm giương thẳng ra và khi chiến đấu thì kiếm khí phát ra đầu mũi kiếm. Về hình thể, Kim Dung phân ra trường kiếm (kiếm dài) và đoản kiếm (kiếm ngắn). Nhũng nhân vật sử dụng đoản kiếm trong tác phẩm của ông thường là những người có gia số võ công đặc biệt, chuyên đánh cận chiến; chân tay rất linh hoạt. Kiếm bình thường thì than thẳng, cá biệt, trong Tiếu Ngạo Giang Hồ Ký, Kim Dung mô tả nhân vật Tái Bắc minh đa Mộc cão Phong, một người gù như lạc đà (minh đà) vì có bướu trên lưng; y sử một cây đà
kiếm cong cong hình lưỡi liềm. Đúng là đà nhân đà kiếm! Thanh kiếm đặc biệt của Mộc Cao Phong nhắc chúng ta nhớ lại hình ảnh những lưỡi kiếm cong của cẳc đội quân Arập trên sa mạc trong những phim nói về khu vực châu Phi.
Kiếm là một loại vũ khí cá nhân nên thường thường bọn hào sĩ sử đơn kiếm. Tuy nhiên cũng có những người chuyên đánh song kiếm. Lại có những cặp anh em, vỢ chồng, bạn bè đồng môn sử đơn kiếm nhưng chuyên đánh đôi thành song kiếm hợp bích. Cổ lối đánh tập thể kết làm kiếm trận. Triet học Đông phương đã đi vào bài bản kiếm pháp với Lưỡng nghi kiếm pháp, trong đó hai người cùng đánh: một người theo chính Lưỡng nghi, một người theo phản Lưỡng nghi, có chính có phản mới thành hợp bích chẳng khác nào có thèse, có antithèse mới ra được synthèse trong triết học Hy lạp.
Về nguyên tắc sử kiếm, Kim Dung đưa ra kiếm tông và khí tông. Kiếm tông chú trọng kiếm chiêu, ra đòn liên miên bat tuyệt để thủ thang. Khí tông chú trọng nội cống, cho rằng nội công cao cường là chỉ đằnh một vài chiêu là có thể triệt hạ địch thủ. Đây chính là sự mâu thuẫn trong nội bộ phái Hoa sơn, khiến phái này tương tranh đến nỗi gần tuyệt diệt. Để có thể sử kiếm, người ta phải học kiếm pháp. Kiếm pháp được hiểu là nguyên tắc hướng dẫn sử một đường kiếm chuyên mon của một phái hay một nhà (gia). Kiếm pháp được cụ thể hóa thành một bài ca và người kiếm sĩ phải học thuộc long từng cẩu, từng chữ. Những câu ca ấy được chép lại trên lụa, trên vải, trên cjiấy, trên da dê thì được gọi là kiếm phổ. Kiếm phổ chia ra từng chiêu, từng thức; moi chiêu thức có nhiều cách biến hóa linh động. Kim Dung đã thực sự đưa người đọc đi vào một thế giới mộng mơ thú vị khi ông đề cập đến những Thái Sơn thập bát bàn, Hành sơn thập tam thức và lý giải Lưỡng nghi kiếm pháp có 64 thế. ấy là vì Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái (quẻ); trong mỗi quái có 8 lần biến hóa, 8 lần 8 thành 64 thế. Đo là chính Lưỡng. Thế còn phản Lưỡng nghi. Phản Lưỡng nghi là đánh ngược lại những quy tắc của chính Lưỡng nghị, tạo ra một âm một dương, một trên một dữới, một trái một phải, một trước một sau. Thử tưởng tượng một đối thủ phải đấu với một cặp song kiếm Lưỡng nghi! Kim Dung chỉ đặt vấn đề và chúng ta tưởng tượng.
Trong Tiếu ngạo giang hồ ký, Kim Dung nói đến một thứ kiếm pháp lãng mạn hơn: Độc cô cửu kiếm do Phong Thanh Dương truyền lại cho Lệnh Hồ Xung. Đây vốn là kiếm pháp của Độc cô Cầu Bại, chỉ gồm có 9 thức: Tổng quyết thức, Phá kiếm thức, Phá đao thức, Phá thương thức, Phá tiên thức, Phá côn thức, Phá chưởng thức, Phá tiễn thức và Phá khí thức, với 9 thức đó, Độc cô Cầu Bại đánh thắng tất cả các địch thủ khiến cho không ai còn dám đến đánh kiếm với ông. ông rơi vào cô đơn (Độc Cô), chỉ mong được thua một lần (Cầu Bại) mà không ai có thể khiến ông thua được, cuối cùng chết đi trong lặng lẽ! Phong Thanh Dương cắt nghĩa: Độc cô cửu kiếm đánh theo kiếm ý, nghi đen đâu là đanh đến đó, muốn đánh thế nào cũng được, chỉ có công chứ không bao giờ quay về thủ. Hễ địch đánh 100 chiêu, ta đánh 101 chiêu; địch đánh 1000 chiêu, ta đánh 1001 chiêu; liên miên bất tuyệt như nước chảy mây trôi. Lệnh Hồ Xung nghe được thứ kiếm pháp như vậy, anh ta mừng như điên vì tâm tính anh ta vốn lãng mạn. và trận ra oai đầu tiên của Độc cô cửu kiếm vừa khiến Lệnh Hồ Xung, vừa khiến chúng tã kinh hãi: Lệnh Hồ Xung mất hết công lực, chỉ sử một chiêu Pha khí thức, đã đâm mù mắt 15 tên ác đồ của phái Tung sơn!
Kiếm nằm trong vỏ là biểu hiện của hoà bình; kiếm rút ra khỏi vỏ là biểu hiện của đấu tranh. Thậm chí với Diệt tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi trong Ỷ
thiên Đồ long ký, mỗi khi rút kiếm Ỷ thiên ra, kiếm không dính máu là chưa đút vào vỏ. Rút kiếm ra khỏi vỏ, người ta thường bắt quyết: mũi kiếm hướng lên trời, mũi kiếm chỉ xuống đất, mũi kiếm chỉ ra phía trước, thân kiếm hoành ngang người... Chiêu đầu tiên của những người nhỏ tuổi khi đấu với người trưởng thượng phải là chiêu thi lễ: hai tay đưa thẳng kiếm lên khỏi đầu là Vạn nhạc triều tôn; hai tay nắm lấy đốc kiếm, cả người và kiếm cùng cúi tới trước là Đồng tử bái Quan Âm.
Sử kiếm là cả một nghệ thuật. Dương Qua và Tiểu Long Nữ trong Thần điêu hiệp lữ sử Ngọc nữ kiếm pháp một cách uyển chuyển mỹ lệ như một cạp mua đôi. Tả Tử Mục, chưởng môn phái vô Lượng trong Thiên Long bat bộ sử kiếm chém con rắn đang cuốn lấy người học trò, rắn đứt đôi mà da học trò vẫn không xây xát. Ninh Trung Tac của phái Hoa sờn sử thế kiếm quyết định đâm vào người học trò là Lệnh Hồ Xung, kiếm vừa chạm đến da, đã chuyền kình lực đâm thẳng thành kình lực bẻ ngang, khiến thanh kiếm gẫy làm chín mảnh rơi xuống choang choảng. Trong đường kiếm còn có cả tình yêu đôi lứa: Nhạc Linh San cùng Lệnh Hồ Xung thầm yêu nhau, đã lén cha mẹ luyện môn Xung - Linh kiếm pháp, khi múa lên đôi mắt mơ màng, đôi lòng ấm áp. vì họ còn rất trẻ nên nghịch ngợm, nghĩ ra ra chiêu Nhĩ tử ngã hoạt (người chết ta sống), tính toán kỹ luồng lực đạo, bộ vị, phương hướng sao cho đâm một lần hai đầu mũi kiếm phải dính vào nhau, hai thân kiếm nối thành một đường thẳng.
Những kiếm chiêu trong truyện võ hiệp Kim Dung được ông đặt tên rất hay: Thuận thủy thôi chu (theo nước đầy thuyền), Lãng tử hồi đầu (người trai ra đi đã quay đầu lại), Thương tùng nghênh khách (tùng xanh đón khách), Trường Giang tam điệp lãng (ba đợt sóng trên sông Trường Giang)... Đôi khi, có những chiêu kiếm phát quá nhanh, máu không kịp chảy Trong Lộc Đỉnh Ký có nhân vật Phùng Tích Phạm mang ngoại hiệu Nhất kiếm vô huyết (một đường kiếm không chảy máu). Nói thì vậy nhưng khi Phùng Tích Phạm đánh Song Nhi, người hầu của Vi Tiêu Bảo, đâm cô mọt kiếm, máu vẫn chảy ra như thường. Cho nên Vi Tiể u Bảo gọi giễu Phùng Tích Phạm là Bán kiếm hữu huyết (nửa chiêu kiếm đã có máu), có những chiêu phi kiếm, phóng kiếm bay trong không gian để giết địch thủ. có những chiêu hoán thủ kiếm: kiếm đang cầm tay phải, đột ngột đổi qua cầm tay trái.
Người ỷ có kiếm trong tay chưa chắc đã thủ thắng. Tiểu anh hùng Hồ Phỉ trong Lãnh Nguyệt Bảo Đao học được phép Không thủ đoạt bạch nhận, chuyên dùng tay không đoạt kiếm kẻ khác. Lệnh Hồ Xung có chiêu dùng ngón tay búng vào sóng kiếm đối phương cho kiếm văng đi. Nhậm Ngã Hành phát Phách không chưởng, chưởng lực đủ sức đánh oằn thanh kiếm của địch thủ. Những kiểu mô tả vừa có cơ sở thực te, vừa không tưởng khiến chúng ta cảm thấy thú vị.
Nhưng thú vị nhất có lẽ vẫn là những trận đấu kiếm mà không có kiếm, không dùng kiếm, vương tử Đại Lý Đoàn Dự đã học được Lục mạch thần kiếm cua chùa Thiên Long, nước Đại Ly, dùng kình lực của nội công phát ra 6 ngón tay theo 6 đường thiếu dương, thiếu âm, thiếu xung, trung xung, thiếu trạch. Kiếm khí của anh ta đánh cho Mộ Dung Phục tơi tả, hoảng hốt trước hàng vạn đôi mắt quần hùng tụ tập tại chùa Thiếu Lâm. Hai trận đấu kiếm kỳ lạ nhất la hai trận đấu giữa Lệnh Hổ Xung và Xung Hư đạo trưởng, chưởng môn phái Võ Đang. Lần thứ nhất, dưới chân núi Võ Đang, Lệnh Hồ Xung và Xung Hư đứng cách nhau cả chục bước, chỉ lấy mất mà nhìn huyệt đạo của nhaụ ấy vậy mà Xung Hư chịu thua. Lần thứ hai, trong chùa Thiếu Lâm, Lệnh Hồ Xung và Xung Hư đã rút kiếm ra nhưng Xung Hư chỉ đứng xa
Lệnh Hồ Xung và nghĩ ngợi, cuối cùng chịu thua. Ấy là vì cả hai chỉ đấu kiếm ý chứ không đấu kiem chiễu.
Kiếm là vũ khí nhưng những kiếm sĩ không lạm dụng kiếm chiêu để giết ngườị Đọc văn Kim Dung, ta thường thay những cụm từ "điểm tới là thôi", "đủ phân thắng bại". Người ta dùng kiếm để họp bạn và những lần gặp gỡ như vậy được gọi là "luận kiếm". Người ta lỡ tay dùng kiếm giết người không khỏi có điều hối hận, đau khổ. Cho nên, đã có những kiếm sĩ của Kim Dung bẻ kiếm bên trời (thiên nhai triết kiếm), đã có những người "rửa tay gác kiếm". Lại có những người treo kiếm lên không dùng tới, dấu kiếm trong cây đàn, để kiếm hoài trong vỏ không rút ra được nữa. Hà Túc Đạo trong Ỷ thiên Đồ long ký được xưng tụng là tam thánh: Cầm thánh, Kỳ thánh, Kiem thánh nhưng cuối cuộc đời, anh ta quay về đỉnh Kinh Thần Phong ngoài núi Côn Luân xa xôi vạn dặm, treo cây kiếm lên va lặng lẽ nhớ đến cô bé Quách Tường 16 tuổi. Đã có một lần, Hà Túc Đạo vừa đấu kiếm chống 3 kẻ địch, vừa phóng chỉ vào cây đàn để dưới đất, đàn cho Quách Tường nghe một cầm khúc mới nhất. Quách Tường nghe tiếng đàn và đỏ mặt lên, biết Hà Túc Đạo viết khúc cầm phổ này để tặng cho mình. Họ chỉ gặp nhau một lần ngắn ngủi trong rừng chùa Thiếu Lâm va xa nhau một đời. Làm sao mà cuộc đẩu kiếm hung hiểm lại có thể cùng diển ra một lúc với cung đàn thanh thoát, trữ tình? Mặc kệ, Kim Dung cứ viết, ông đúng là nhà văn lãng mạn, lãng mạn ngay trong đường đao mũi kiếm, và vì vậy trong tac phẩm võ hiệp của ông, ngay những loại kiếm pháp, kiếm trận hung hãn nhất vẫn luôn luôn lấp lánh những khúc tình ca .
0 nhận xét: