một số kỹ thuật so đẳng đó trong tiếu thuyết vò hiệp của Kim Dung.
Kim Dung cho ta biết người Trung Hoa đã biết sử dụng chất cương toan (acid) vào nhiều ỉĩnh vục khác nhau. Đầu tiên, chât acid dùng dể viết chữ. Bộ Ỷ thiên Đồ long ký có nhắc đến sáu thanh Thánh hỏa ]ệnh của Bái hỏa giáo Ba Tư do ba sứ giả của tôn giáo này đem vào Trung Quốc, dùng như một loại vũ khí và trên đó có khắc pho võ công quái dị của người Ba Tư. Trưong Vô Ky, giáo chủ Bái hỏa giáo Trung Quốc (Kim Dung dùng tù Minh giáo - Manichéisme) sử dụng vb công tuyệt thế đoạt duọc các thẻ Thánh hỏa lệnh. Điểu đặc biệt là các Thánh hỏa lệnh không phải bằng xuong, bằng ngà, bằng thép mà là băng một loại họp kim rất lạ. Để viết được tâm pháp võ công trên Thánh hỏa lệnh, nguôi Ba Tư đã nhúng Thánh hỏa lệnh vào sáp, lấy cọ cứng viết chữ trên mặt sáp rồi dùng chát cuông toan dồ theo nét chữ nhiều lần mói in sâu đuọc chữ vào Thánh hỏa lệnh.
Bọn hào sỉ giang hổ của Kim Dung dà biết dùng cường toan làm vũ khi chiến đấu, Trong Ngũ kỳ của Minh giáo Trung Quốc, có đội Hổng thủy kỳ chuyên dùng ô'ng phun cuông toan vào kè địch. Trên sân chùa Thiếu Lâm, họ dã biểu diễn màn đánh cuông toan vào bầy chó sói cho quần hùng mục kích. Bộ Tiếu ngạo giang hổ cũng nói đến kỷ thuật đánh cuông toan này. Bọn giáo chúng Nhật Nguyệt giáo ngụy
trang lên Hằng Son chúc mùng lề nhậm chúc chưởng môn của Lệnh Hồ Xung dã đem theo ông phun nước cưòng toan, vây hãm Lệnh Hổ Xung, Phưung Chứng • trụ trì chùa Thiếu Lâm và Xung Hư - chưởng môn phái Vò Đang...
Kim Dung còn để cập đến kỹ thuật dùng thuốc nổ. Đầu tiên thuốc nô’ đuợc dùng như một loại pháo thăng thiên, nổ trên không trung cho ra những hình ảnh đặc biệt. Đây là cách triệu tập dồng môn, đệ tử của từng môn phái. Từ thuốc nổ làm pháo, Kim Dung bàn đến kỹ thuật chôn thuốc nổ để đánh mìn. Phái Tiêu Dao trong bộ Thiên Long bát bộ có kỹ thuật đánh mìn cực giỏi. Bọn Hàm Cốc bát hữu của phái Tiêu Dao dùng thuốc nể làm mìn chống Đinh Xuân Thu. Trong Tiếu ngạo giang hồ, phái Võ Đang chôn thuốc nổ ở núi Hang Son dịnh tiêu diệt Nhật Nguyệt giáo. Trong Ý thiên Đồ long ký, Viên Châu (túc Thành Khôn) chôn thuốc nổ hòng tiêu diệt Minh giáo. Họ đều biết cách chuyền dây dẫn, kích hỏa, tạo phản úng nổ...
Lịch sử cho ta biết nguôi Trung Hoa là dân tộc đầu tiên tìm ra thuốc nể phục vự nghề làm pháo. Điều thú vị là trong tiểu thuyết của Kim Dung, không có vụ nổ nào thành công bởi vì cuối cùng chẳng có ai kích hỏa. Tết cả dều kết thúc tốt đẹp, nhân vật giang hồ không ai chết tập thể vì thuốc nổ, dù dã đuọc chôn theo đúng dự kiến.
Bộ Thiên Long bát bộ giói thiệu
cho chúng ta biết kỹ thuật sử dụng chất lân (phosphore) làm vũ khí. Phái Tinh Tú của Đinh Xuân Thu lấy chất lân chế ra nhũng viên đạn dùng để bắn vào thân thể người khác. Ngọn lửa xanh biếc của chất lân bấm vào quần áo, da thịt ngubi bị bắn, bốc cháy khiến nạn nhân đau đớn, kêu gào rất thảm thiết trước khi chết. Phái Tinh Tú sử dụng loại dạn này dể trừng phạt các giáo đổ có âm mưu phản thầy, dối bạn dồng môn.
Sự thật của súc mạnh trong việc dánh nhau chủ yếu vẫn là vũ khí. Vũ khí càng mói mẻ, việc dánh nhau càng dễ đua đến thành công, Truyện Lộc Đính ký nói đến kỹ thuật dúc súng đại bác: vua Khang Hy lặng lẽ giao cho hai giáo sl nguòi Tây Dưong là Nam Hoài Nhân và Thang Nhuọc Vọng luyện kim đúc súng dại bác. Nhà vua chuân bị việc đánh nhau vói Bình Tây vuông Ngô Tam Quế b Vân Nam và vói quân Nga ở biên giói Đông-Bắc. Súng đại bác thòi đó chưa có bộ phận kích hỏa, phải đốt mồi lửa sau duôi trái dạn để tạo phản ứng nổ dẩy trái đạn bay đi. Đây là một dạng sử dụng thuốc bồi trong pháo binh hiện đại. Để buổi thao diễn kích thích tinh thần sĩ tốt, Nam Hoài Nhân và Thang Nhược Vọng cho xây sẵn những gò nổng làm mục tiêu, bên trong gò nổng chúa đầy diêm sinh, lưu huỳnh. Quả đạn roi trúng mục tiêu nổ bùng khiến các chất trên đáy bốc cháy rực trơi. Bọn sĩ tốt phấn khải, hoan hô vạn
tuế muốn bế cả diễn võ truòng.
Kỹ thuật luyện kim đưọc Kim Dung nhắc đến nhiều nhất trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp của ông. Bọn hào sĩ giang hồ đánh nhau thương sử dụng đến hai thứ vù khí cổ điển là dao và kiếm. Kim Dung đề cập đến loại bảo đpo, bảo kiếm như Đồ long đao và Y thiên kiếm (Ỷ thiên Đồ long ký) chém sắt như chém bùn. ông cũng đề cập đến các loại trủy thủ (dao găm) chế bang họp kim đặc biệt như lưỡi trủy thủ của Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đinh ký. Loại trủy thủ này bén ngọt đến nỗi Vi Tiểu Bảo đâm xuyên qua vách ván, giết chết mấy Lạt ma Tây Tạng cứu thầy mình là cửu Nạn sư thấi mà nguôi ở hiện trường chẳng biết tại sao các Lạt ma chết đi. Trong Hiệp khách hành, ông đề cập đến một thứ lệnh bài làm băng huyền thiết (thép den) của Tạ Yên Khách. Tạ Yên Khách lây kiếm chém vào Huyền thiết lệnh, kiếm gãy mà lệnh bài vẫn không suy suyển chút nào.
Nhắc đến thuật luyện kim, Kim Dung không quên khoác vào chọ thuật này chất huyền bí. Trong ý thiên Đồ long ký, ông kể lại chuyện quần hào Minh giáo nối lại cây đao Đồ long đâ gãy. Trên ngọn lủa đỏ phùng phùng, tất cả các loại kêm gắp bảo đao nóng quá, chảy ra thành chất lỏng mà bảo đao vẫn chưa nôi lại đuọc. Trương Vô Ky phải cho bọn giáo chúng mượn bốn thanh Thánh hỏa lệnh kẹp bảo dao. Ngọn lửa cháy cao, một thuộc hạ
của Vô Ky phải múa kiếm đám bạn mình cho máu phun vào chỗ đương ráp nôỉ, bảo đao mói lành lặn lại đuọc. Câu chuyện nhắc ta nhó lại huyền thoại luyện hai thanh kiếm Can tuong và Mạc gia (Mạc tà) thoi Chiến Quốc.
Ỳ thiên ĐỒ long ký cũng đề cập dến việc sử dụng dầu đá (thạch du - dẩu thô lây từ mỏ ra, chua đuọc chê biến) của nguời Trung Quấc cuối đơi Nguyên. Trong đội ngũ kháng chiến của Minh giáo có dội Liệt hỏa công chuyên lấy dầu thô phun qua ông thụt để đánh hỏa công. Nói đến việc lấy dầu thô là nói đến kỹ thuật khai thác quặng mỏ. Minh giáo bắt nguồn từ Ba Tơ nên rất rành kỹ thuật khai thác loại dầu này.
Nhưng tòi vẩn nghĩ rằng kỹ thuật lạ nhất đuực Kim Dung đề cập đến là kỹ thuật chung cất ruọu. Kỹ thuật này đuọc đề cập trong Tiểu ngạo giang hồ. Đan Thanh tiên sinh ỏ Giang Nam đem ba chiêu kiếm truyền cho kiếm khách Mạc Hoa Nhĩ ngụbi Thổ Lỗ Phồn (Thổ Phồn - Tourfan) dể đổi lấy bốn thùng rưọu Bồ đào đà cất được 120 năm. Vận chuyển loại danh tửu này tù Thổ Lỗ Phồn về đến Giang Nam phải mất bốn tháng, đuừng di lại khó khăn nên đến Giang Nam chát rượu lại chua, không dược thuần mỹ. Đan Thanh vào hoàng cung, bắt cóc một chuyên gia của ngự trù phòng chuyên chung cất rượu cho vua uống dem về Giang Nam, buộc gă phải chung lại mấy
thùng Bồ dào tửu cho mình. Rượu đuọc chung lại đúng 13 tháng thì Đan Thanh gặp đuọc “ông trùm" uống rượu Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung mói uống một hớp Bồ đào tủu đã lấy làm lạ, nhận xét trong cái mói có cái cũ, trong cái cũ có cái mới, duòng như đã 120 năm mà cũng dường như mói mười hai tháng. Đan Thanh tiên sinh hân hoan cho biết thứ Bồ đào tửu này đã được Mạc Hoa Nhỉ ba lẩn cất, ba lần chưng, về đến Giang Nam lại chưng cất thêm một lần nữa. Cho nên vị rượu vừa 120 tuổi mà cũng vừa 13 tháng là như vậy.
Kỷ thuật sau cùng đáng quan tâm là kỹ thuật dệt kim. Kim Dung giói thiệu một loại bảo y hộ thân rất hiệu nghiệm, được dệt bàng loại sọi kim ty (tơ kim khí) phôi họp vói to tằm ngàn năm trên đỉnh Tuyết Son. Loại áo này là nội y, mặc lót bên trong, đao kiêm đắm chém không lủng, quyền chưởng đánh không bị chân động. Trong Lộc Đinh ký, Khang Hy mặc một chiếc, Vi Tiểu Bảo mặc một chiếc. Quả nhiên, không ai choi nổi cẳ vua tôi nhà này.
Nhân loại càng tiến bộ, kỹ thuật càng phát triển. Tiểu thuyết vô hiệp của Kim Dung đơn thuần là tiêu thuyết, hoàn toàn không có ý định giói thiệu sợ tiên bộ trong khoa học-kỹ thuật của người Trung Quốc, ông cứ viết vậy, chúng ta đọc và tưởng tượng. Còn tưởng tượng đến dâu thì dó là quyền của chúng ta. □
0 nhận xét: